Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012
Yếu tố mội trường ảnh hưởng đến nền văn hóa khảo cổ Đông Sơn
Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012
Chút Kỷ Niệm Cũ
Thứ Hai, 4 tháng 6, 2012
Lời Tựa Cho Khảo Cổ Học
Cũng lâu rồi không vào Blog viết lách một chút gì đó , mọi người thông cảm nha tại bận công việc quá đó mà . Cái công việc nghiên cứu khoa học này nó nhức đầu lắm . Nhưng kệ mình vẫn vui vì đã chọn một đam mê là đi theo khoa học mất rồi . Moi ngành khoa học đều có giá trị vô cùng to lớn đối với sự phát triển của loài người (ở đây cần phải hiểu là khoa học chân chính) . Khoa học lịch sử thuộc nhóm ngành khoa học nhân văn đã được quan tâm và hình thành từ thời cổ đại ở cả phương Tây và phương Đông với những sử gia nổi tiếng như : Herodot , Khổng Tử .v....v... Theo thời gian khoa học xã hội ngày càng phát triển vô cùng phong phú và rực rỡ với những nền tảng của triết học làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu nên từ lâu Khảo cổ học đã được khá nhiều những học giả quan tâm . Ở giai đoạn phong kiến cả phương Đông và phương Tây đều có những phát hiện thú vị về những hiện vật của thời đại trước đó , nó gây nên trí tò mò khám phá cho con người và họ bắt đầu quan tâm đến những hiện vật đó một cách hứng thú hơn . Việc giải thích những hiện vật đó trong thời gian đầu không thoát khỏi cái nhìn hạn chế và những yếu tố có liên quan đến những lực lượng siêu hình như tôn giáo chẳng hạn . Thời gian dần trôi con người với những thành công vượt bậc của khoa học kỹ thuật ngày càng làm chủ được cuộc sống của chính mình tuy vẫn còn chịu sự chi phối khá mạnh mẽ của tự nhiên song con người được vũ trang hóa bởi trí thức của thời đại đã không còn quá tin vào những chuyện huyền hoặc mà bắt đầu lý giải nó dưới góc nhìn của khoa học và kỹ thuật . Các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm tới những hiện vật mà con người đã sưu tập được và đặc biệt hơn họ đã bắt đầu nghiên cứu những dấu tích từ thời xa xưa để lại trên những công cụ hay vật chất nào đó thay vì tìm lời giải thích từ những tôn giáo lâu đời ! Và trời ơi ! một kho tàng kiến thức khổng lồ vô biên vô tận đã mở ra khi chúng ta bắt đầu nghiên cứu những vật chất câm đó ! Chúng là những chứng nhân câm lặng của lịch sử và đặc biệt là chúng hoàn toàn khách quan . Công việc của các nhà nghiên cứu là giải mã chúng bắt chúng phải nói lên những điều đã từng xảy ra trong lịch sử loài người chí ít là vài triệu năm cách ngày nay . Lịch sử loài người luôn luôn vận động và phát triển từ những hình thức sơ khai ban đầu là việc sử dụng những công cụ bậc 1 (một công cũ tự nhiên nào đó có thể bắt gặp bất cứ đâu trong tự nhiên) đến việc tạo ra công cụ từ những công cụ bậc 1 đó tạm gọi là công cụ bậc 2 . Bạn có thể hình dung được không ? Một cái đơn giản là chế tạo những công cụ đá đem lại những công năng cao cho cuộc sống thì con người đã mất vài triệu năm rồi đấy ! Có thể thấy rằng con người được hình thành cách đây khoảng 3,5 triệu năm từ một loài vượn phương Nam là Australopitec ở khu vực Đông và Nam Châu Phi cho đến tận thời đại cách mạng đá mới (10.000 năm Trước Chúa giáng sinh) thì con người vẫn đắm chìm trong những công cụ đá và việc chế tạo chúng . Thậm chí ngay trong thời đại đầu kim khí thì việc sử dụng các công cụ đá xem ra vẫn rất được chú ý . Như thế thời đại đồ đá kéo dài nhất trong lịch sử loài người , điều đó ai cũng biết nhưng tôi muốn nhắc lại ở đây để chúng ta thấy rằng tổ tiên của chúng ta đã phải mày mò trong quá vẵng như thế nào từ những hòn đá, hòn cuội trong tự nhiên chưa được chế tác cho đến những lưỡi rừu, những con dao đá hay những công cụ được mài một mặt hoặc hai mặt là cả một quá trình kiên trì sáng tạo không mệt mỏi của tồ tiên loài người . Sau thời đại đá là tới thời đại chuyển tiếp giữa đá và kim loại và rồi kim loại bắt đầu xuất hiện , nhựng thành tựu văn minh kỳ vỹ và to lớn của nhân loại cũng đã được hình thành trong giai đoạn đầu của thời đại kim khí này. Ven những con sông những quốc gia cổ bắt đầu hình thành ở khu vực Châu Phi phải kể đến một quốc gia đó là Ai Cập được hình thành ở khu vực Sông Nin với những thành tựu to lớn về tất cả các lĩnh vực như : Chữ viết , văn học , tôn giáo , nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc , y học thiên văn học ....v...v.....là những thành tựu hết sức to lớn khiến nhân loại phải ngưỡng mộ . Ở khu vực Lưỡng Hà thuộc Đông phương là khu của hai con sông lớn chảy qua đó là Tai gơ và Ơ rơ phát tại khu vực này qua các cuộc điều tra và nghiên cứu khảo cổ học cũng thu được những bằng chứng hết sức cụ thể về lịch sử văn minh của một số quốc gia mà tiêu biểu là quốc gia Babilon nổi tiếng dưới triều vua Hamurabi lịch sử . Lần đầu tiên con người đã phát hiện ra một bộ luật được khắc trên đá của vua Hamurabi chứng tỏ xã hội đã phát triển tới một mức độ khá cao (những điều trong bộ luật này xin được giới thiệu ở một bài viết khác) . Rồi đến Ấn Độ một vương quốc của tâm linh với vô số những điều thú vị được các nhà khảo cổ phát hiện cũng làm nhân loại vô cùng kính phục . Việc phát hiện ra nền văn minh sông Ấn (có niên đại khoảng nửa sau thiên niên kỷ III trước thiên chúa giáng sinh đến khoảng năm 1750 trước thiên chúa giáng sinh) mà tiêu biểu là hai khu vực di tích vốn là hai thành phố cổ đại đó là Harapa và Mohengio-Daro đã cho thấy trình độ tổ chức đô thị và kỹ thuật xây dựng của cư dân khu vực văn minh sông Ấn phát triển tời mức nào và còn rất nhiều những phát hiện khác nữa liên quan đến những tôn giáo đã từng tồn tại trên mảnh đất này được các nhà khảo cổ đưa ra ánh sáng của thời hiện đại . Trung quốc một đất nước rộng lớn ở khu vực Đông Á cũng có một nền lịch sử văn hóa lâu đời ở ven khu vực hai con sông lớn đó là Hoàng Hà ở phương Bắc và Trường Giang (Dương Tử) ở phương Nam . Khảo cổ học cũng đã có những khám phá to lớn trên đất nước này từ thời tiền sử như việc phát hiện di cốt của người vượn Bắc kinh và sau đó là những khám phá về thời sơ sử và lịch sử của đất nước này . Xung quanh những trung tâm văn hóa trên các quốc gia phụ cận cũng như khắp mọi nơi trên thế giới này đều tồn tại những nền văn minh khác có sự giao lưu văn hóa cũng như những truyền thống riêng vô cùng độc đáo . Những thành quả văn hóa lớn lao như thế không thể bị lãng quên trong lịch sử . Chính vì thế ngành Khảo cổ học với chức năng tìm tòi nghiên cứu và phục dựng lại lịch sử đã ra đời như một tất yếu phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu về lịch sử văn minh của nhân loại
Mấy suy nghĩ về người Neantherthal
Thứ Sáu, 20 tháng 4, 2012
Qua Đồng Long Giao (Đồng Nai)
Sơ Lược Về Văn Hóa Đồng Nai
Dải đất Việt Nam cong cong hình chữ S với một bờ biển dài hơn 3000 km có một vị trí đặc biệt quan trọng , là cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo . Với một vị trí chiến lược đặc biệt như vậy có thể coi Việt
Qua Đồng Long Giao
Nếu chúng ta đã từng xem những bộ phim truyền hình lịch sử của Trung Quốc đặc biệt trong giai đoạn Chiến Quốc và thời nhà Tần (221-206TCN) thì chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh những chiếc qua được buộc vào những cây gỗ (một số có thể được buộc vào những cây sắt) được dùng rất linh hoạt khi tác chiến . Có lẽ từng một thời kỳ người ta nghĩ rằng loại hình vũ khí “qua” này là một đặc trưng trong các loại binh khí của người Trung Nguyên và khi thấy nó người ta sẽ nghĩ ngay đến Trung Nguyên xa xôi . Nhưng quan điểm đó sẽ trở nên lỗi thời và không chính xác khi những chiếc qua đồng tại các địa điểm như Dốc Chùa (Bình Dương) , Bàu Hòe , và đặc biệt là là một kho qua Đồng hết sức độc đáo và phong phú với khoảng 70 chiếc được tìm thấy tại Đồng Nai . Ngược trở lại lịch sử trở về năm 1982 các cán bộ của ban khảo cổ học (Viện khoa học xã hội tại Thành Phố Hồ Chí Minh) và phòng bảo tồn , bảo tàng (Sở Văn Hóa Và Thông Tin Đồng Nai) đã tiến hành điều tra sơ bộ trên sườn đồi bazan (57) gần một chóp núi lửa thuộc nông trường cao su Hàng Gòn vị trí tọa độ nơi phát hiện ra những chiếc Qua đồng là ở kinh độ 107º46’6’’ vĩ độ 10º49’27’’ thuộc ấp Long Giao , xã Xuân Tân , huyện Xuân Lộc , tỉnh Đồng Nai . Vị trí này cách di chỉ khảo cổ học nổi tiếng Hàng Gòn chỉ tầm 4km và cách huyện lỵ Xuân Lộc khoảng 20km về phía
Bản Vẽ Qua Đồng Long Giao
(http://dzunglam.blogspot.com/2009/09/van-hoa-ong-nai.html)
Góc bổ của qua có một vai trò quan trọng đối với công năng của một chiếc qua . Góc bổ lớn cho phép chiếc qua sử dụng một cách dễ dàng và đem đến công năng to lớn , chiếc qua ngoài nhiệm vụ móc , bổ chém còn có một tác dụng to lớn nữa đó là khả năng quét lia (có công năng đặc biệt khi góc bổ được mở rộng . Mỗi chiếc qua đồng Long Giao bao gồm 3 phần gồm : lưỡi , đốc và chuôi , phần lưỡi tùy theo từng kiểu khác nhau sẽ có những thay đổi nhất định còn phần đốc và chuôi nhìn chung tương đối ổn định . Hoa văn thường được trang trí trên đốc lưỡi và cả chuôi . Trên phần đốc có những lỗ để buộc ngoài một tiêu bản có 4 lỗ thì phần lớn các qua này có 3 lỗ hình chữ nhật để xuyên dây buộc cán . Trong phần tiếp xúc giữa chuôi và đốc còn có một lỗ nhỏ nữa đó chính là lỗ để chốt cán . Chuôi của những chiếc qua đồng này có dạng gần như hình thang còn phần đốc theo như PGS.TS Phạm Đức Mạnh thì có hình dạng giống hình dao thợ giầy với một cạnh thẳng và cạnh tạo thành còn lại lượng cong . Để thuận lợi cho việc miêu tả xin được chia các qua đồng Long Giao ra làm 4 loại theo như cách phân chia mà PGS.TS Phạm Đức Mạnh đã từng chia cụ thể như sau :
Loại 1 : Bao gồm 08 chiếc cũng chính loại này có số lượng nhiều nhất trong bộ sưu tập qua đồng , một đặc điểm chính của loại qua này đó là lưỡi hẹp và thường rất dài , chiều dài của lưỡi thường gấp từ 4 đến 7 lần chiều rộng nhất của bản lưỡi gấp hai lần đốc và 4 lần chuôi . một đặc điểm nữa của loại qua này là mũi nhọn tương tự như mũi kiếm , bên cạnh đó phần hoa văn được bố trí khá nhiều ở phần đốc và chuôi được giới hạn bởi những hình học bao quanh bên ngoài . Loại 1 này lại tiếp tục được phân loại thành 4 loại nhỏ hơn dựa trên kích thước độ mở của lưỡi …v…v… theo đó loại 1a bao gồm 3 chiếc qua đồng , có cạnh chuôi thẳng hoạc hơi lồi loại 1a này với đặc điểm là góc lưỡi khá mở rộng với biên độ giao động nằm trong khoảng từ 125ºª138º, lưỡi của loại qua này cong vút và thon nhỏ . Trên phần lưỡi của loại qua này thường được trang trí những hoa văn hình học . Nếu nhìn một cách tổng thể những chiếc qua này có hoa văn ở phần trên đốc và lưỡi giống như hình súng ngắn , hoa văn trên những chiếc qua này thường là những hoa văn hình học mà chủ yếu là nhựng vòn tròn đơn lẻ hoặc là những vòng tròn xoáy ốc tiếp tuyến thành hai cặp và gắn kết các cặp này với nhau là một hay hai đường tiếp tuyến nữa . Khung hoa văn ở chuôi có hình bình hành , những cạnh viền là những hình có dạng gờ nổi . Lỗ chốt cán trên chuôi có dạng gần như hình bầu dục hay chữ nhật . Loại qua này có trọng lượng khá nặng khoảng chừng trên 1 kg . Loại qua tiếp theo là loại qua kiểu 1b : kiểu 1b phát hiện được 3 chiếc trong bộ sưu tập qua đồng Long Giao . Đặc trưng của kiểu qua này so với kiểu trên là ở chỗ lưỡi vát cong mỏng và sắc vể phía hai rìa . Rìa lượi phía dưới được gấp làm 3 khúc theo các nhà nghiên cứu vể binh khí thì việc rìa lưỡi gấp khúc thế này giúp tăng khả năng sát thương đối với chiếc qua này . Các họa tiết hoa văn kiểu 1b này cũng giống như những chiếc qua đồng kiểu 1a đó cũng là những họa tiết hoa văn kiểu xoắn ốc tiếp tyến với nhau tuy nhiên trong một tiêu bản qua đồng thuộc loại 1b này có mộ hoa văn hơi đặc biệt đó là tiêu bản qua đồng 84LG-02 , chiếc qua này ở phần dưới đốc người quan sát có thể dễ dàng nhận thấy hai khối dạng như hình voi do các xoắn ốc tạo nên , đặc biệt phần đuôi voi có dạng như hình của một chú ếch được khắc chìm rất giống với những motip được điêu khắc trên những chuôi dao găm được tìm thấy trong văn hóa Đông Sơn . Như vậy phải chăng đã có một sự liên hệ rõ ràng giữa văn hóa Đồng Nai và trung tâm kim khí Đông Sơn ở khu vực Bắc bộ . Cũng cần phải nói thêm rằng hình tượng những chú voi thường mang yếu tố thuần việt . Trong gốm Đông Sơn thì hình tượng những chú voi được trang trí trên các vật phẩm bằng gốm được coi là những yếu tố đặc trưng thuần Việt . Kiểu qua tiếp theo trong loại 1 đó là kiểu qua 1c . số lượng qua đồng kiểu này được tìm thấy là 1 tiêu bản . một đặc điểm của qua kiểu 1e này là góc bổ nhỏ hơn hẳn so với hai loại kia dao động trong khoảng từ 99ºª103º , rìa trên của lưỡi có những đường gấp khúc . Lỗ chốt cán có hình tròn gần bầu dục . Hoa văn được trang trí trên đuôi cũng là những hoa văn như các kiểu trước đó là hoa văn xoắn ốc tiếp tuyến . Kiểu 1d với số lượng thu được là 1 chiếc , kiểu này với đặc điểm là lưỡi không dài và cong như hai kiểu trên , góc bổ của lưỡi là 108º , lỗ chốt cán hình vuông . một đặc điểm của hoa văn trang trí trên chiếc qua kiểu 1d này là các vòng tròn xoắn ốc với các đường tiếp tuyến ngược chiều
Loại 2 : có 4 chiếc được thu giữ , đặc điểm của những chiếc qua đồng loại 2 này là chúng thường có bản lưỡi rộng , tỉ lệ giữa chiều dài và rộng của lưỡi không quá chênh lệch như các loại trên , lưỡi cong đều . Chuôi thon nhỏ gần có hình thang . cạnh cuối chuôi cong lõm . Các hoa văn chủ yếu cũng là những vòng tròn xoắm ốc tiếp tuyến nhau nhưng được phân bố rời rạc theo từng phần lưỡi , đốc , chuôi . Các hoa văn được bố trí trong các khung , khống chế những khung hoa văn này là những đường chỉ viền hay những vành hoa văn vạch ngắn .
Loại 3 : gồm có 3 chiếc đây là những chiếc qua đồng có trọng lượng lớn nhất trong bộ sưu tập qua đồng Long Giao (kích thức của chúng giao động từ 1,85ª1,86kg) , các qua đồng ở loại 3 này có những họa tiết hoa văn hơi khác lạ và lỗ buộc cán thì lớn dần từ dưới đốc lên .
Loại 4 : có duy nhất 1 tiêu bản , nét đặc trưng của qua loại 4 so với các loại khác đó là phần chuôi của loại qua này cong vát lên , thân lưỡi thì thẳng còn phần đầu lưỡi thì phình rộng . Chiếc qua loại này cũng có kích thước khá lớn (nặng khoảng 1,55kg) . Góc bổ khá lớn (122º)
Với một số lượng qua đồng lớn và phong phú về loại hình cũng như hoa văn trang trí độc đáo trên những chiếc qua đồng như vậy , có lẽ lần đầu tiên tại Việt
Qua Đồng Long Giao được Lắp Cán (hiện vật mô phỏng lại qua đồng Long Giao)
Bản vẽ một số kiểu qua đồng Long Giao (Nguồn : http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=E1F0a2V5d29yZD1xJmtpbmQ9c3RhcnQ=)
Tóm lại qua đồng Long Giao là một bộ sưu tập qua đồng độc đáo , nó cung cấp những thông tin vô cùng lý thú và giúp chúng ta có cái nhìn và sự hiểu biết rõ nét hơn về đỉnh cao của một nền văn hóa khu vực nam bộ Việt
Tài Liệu Tham Khảo
Phạm Đức Mạnh , “Qua Đồng Long Giao (Đồng Nai) , Khảo Cổ Học 1/1985 trang (37-68)
Đỗ Bá Nghiệp , Phạm Đức Mạnh (1984) , “Về Nhóm Qua Đồng Mới Phát Hiện Ở Long Giao (Đồng Nai) , Văn Hóa Óc Eo và Các Văn Hóa Cồ Ở Đồng Bằng Sông Cửu Long” , NXB Sở Văn Hóa Thông Tin An Giang
Lê Xuân Diệm , Phạm Quang Sơn , Bùi Chí Hoàng (1991) , Khảo Cổ Đồng Nai , NXB Đồng Nai
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.aspx?param=E1F0a2V5d29yZD1xJmtpbmQ9c3RhcnQ=)
http://dzunglam.blogspot.com/2009/09/van-hoa-ong-nai.html
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111213/tuong-dong-te-te.aspx
[1] Phạm Đức Mạnh “Qua Đồng Long Giao (Đồng Nai)” Khảo Cổ Học 1/1985 , trang 53
[2] Phạm Đức Mạnh “Qua Đồng Long Giao (Đồng Nai)” Khảo Cổ Học 1/1985 , trang 54
[5] http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2394%3Anhng-qphn-t-anh-duq-quan-h-trung-hoa-va-nam-b-vit-nam-thi-th-s&catid=121%3Aht-vit-nam-trung-quc-nhng-quan-h-vn-hoa-vn&Ite
[6] Phạm Đức Mạnh “Qua Đồng Long Giao (Đồng Nai)” Khảo Cổ Học 1/1985 , trang 58
Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012
Những Vấn Đề Cần Quan Tâm Của Khảo Cổ Học Việt Nam
Ngành khảo cổ học ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung còn là một ngành khoa học non trẻ so với những ngành khoa học tự nhiên và xã hội khác . Tuy còn non trẻ nhưng khảo cổ học đã thực sự là một môn khoa học , có ý nghĩa quan trọng trong việc phục dựng lại quá khứ bằng những hiện vật thật . Các thành tựu của khảo cổ học trên thế giới nói chung , và ở Việt Nam nói riêng trong một thế kỷ vừa qua có ý nghĩa vô cùng to lớn , bằng thành tựu rực rỡ của ngành khảo cổ học ở Việt Nam , chúng ta đã chứng minh được nguồn gốc bản địa của Văn hóa Đông Sơn , cũng như chứng minh được thời đại Hùng Vương là có thật trong lịch sử dân tộc . Có thể lấy năm 1898 làm mốc ra đời của ngành khảo cổ học Việt Nam với sự thành lập ủy ban khảo cổ học Đông Dương , sau này đổi thành Viện Viễn Đông Bác Cổ vào năm 1900 . Với chức năng là thu thập và tìm tòi những di tích , di vật cồ ở Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Dương nói chung . Trong suốt hơn một thế kỷ từ lúc ra đời , trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử , khảo cổ học Việt Nam đang ngày một lớn mạnh , đạt được những thành tựu hết sức to lớn về nhiều phương diện , qua đó chúng ta cũng phần nào thấy được những đóng góp hết sức lớn lao của thế hệ tiền nhân đi trước trong ngành khảo cổ như Giáo Sư Trần Quốc Vượng , Giáo Sư Hà Văn Tấn , v..v… Trong những năm tháng chiến tranh ác liệt đội ngũ những nhà khảo cổ vẫn xung phong chấp nhận gian khổ , hi sinh , mất mát đi vào những tuyến lửa để nghiên cứu khoa học phục vụ cho tổ quốc . Sau năm 1975 , đất nước bắt đầu hòa bình , các nhà khảo cổ lại bộn bề với những công việc chồng chất của những di tích ở phía nam Việt Nam như Óc Eo , Đồng Nai , ..v..v.. , với những cố gắng và nỗ lực to lớn ngành khảo cổ học Việt Nam cũng đã gặt hái được vô số những thành công song bên cạnh đó những bất cập đặt ra trong thời kỳ mới không phải là không có .
Điều bất cập đầu tiên có thể nhận thấy là vấn đề về công tác cán bộ khảo cổ học , với tính chất công việc còn bộn bề và phức tạp như thế , nhưng đội ngũ các cán bộ khoa học của bộ môn khảo cổ học ở Việt Nam nhìn chung vẫn còn thiếu thốn , hàng năm số sinh viên theo học ở bộ môn khảo cổ học ở các trường chưa nhiều , một số sinh viên sau khi ra trường còn làm những công việc chủa đúng với sở trường , năng lực cũng như với lượng kiến thức được đào tạo , những chính sách khuyến khích đối với người học bộ môn này chưa nhiều , việc thiếu thốn về đội ngũ là một vấn đề quan trọng đối với tình hình khảo cổ học đang bộn bề công việc như ngày nay . Bên cạnh công tác đào tạo , chúng ta còn phải chú ý tới công tác tái đào tạo đội ngũ cán bộ đã tốt nghiệp , bởi vì chúng ta cần cập nhật những thành tựu khoa học kỹ thuật cũng như những luồng kiến thức mới . Phải nâng cao hơn nữa trình độ sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho khảo cổ học , vấn đề tái đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa có tính chất quan trọng không chỉ trong khảo cổ học mà còn có giá trị đối với tất cả các ngành khoa học khác . Một vấn đề khác của khảo cổ học Việt Nam hiện tại là công tác đào tạo chưa đáp ứng đầy đủ về mặt kiến thức những nhu cầu cần thiết cho người học , đặc biệt là những kiến thức về công tác thực địa điền dã , thật sự là phần lớn những kiến thức mà một sinh viên ngành khảo cổ học của chúng ta ngày nay biết được chủ yếu là dựa trên sách vở lý thuyết là chính , vấn đề thực địa thường chưa có điều kiện để thực hiện nhiều với thời gian đào tạo ở bậc đại học có hạn và còn khá nhiều thời gian phải dành cho những môn đại cương thì thời gian đào tạo của ngành khảo cổ học ở giảng đường đại học là khá ít ỏi , với thời gian đó đòi hỏi một sinh viên khảo cổ học phải rất vất vả để tự tìm những kiến thức bên ngoài .
Một vấn đề nữa được đặt ra đối với ngành khảo cổ học ở Việt Nam ngày nay đó là vấn đề kinh phí , khảo cổ học là một trong những ngành khoa học khá tốn kém , công tác khai quật tốn kém đã đành , công tác nghiên cứu trong phòng lại tốn kém hơn nhiều , dù cho chúng ta có cố gắng khắc phục tốt vấn đề nguồn nhân lực , đội ngũ cán bộ của chúng ta nhiệt tình nhưng thiếu kinh phí thì quả là một thách thức lớn đối với khảo cổ học . Nhà nước có cấp kinh phí cho khảo cổ học nhưng với khối lượng công việc đồ sộ và phức tạp như thế thì nguồn kinh phí đó xem ra cũng có những bất cập . trước những vấn đề đó thiết nghĩ ngành khảo cổ học của chúng ta nên chủ động xúc tiến những chương trình nghiên cứu và hợp tác với các nước khác trên thế giới , việc đó cũng phù hợp với xu hướng hội nhập hiện nay . Hợp tác nhưng tất nhiên là chúng ta cũng không lệ thuộc vào họ , vì khoa học là để nghiên cứu tìn tòi một cách chân chính mang lại những hiểu biết xác thực cho nhân loại . Thông qua những chương trình hợp tác với các nước khác , một phần chúng ta có thể tận dụng nguồn kinh phí của họ đáp ứng phần nào cho khảo cổ học nước nhà , mặt khác chúng ta cũng sẽ có điều kiện tiếp xúc với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như với những phương pháp nghiên cứu liên ngành khác . Ngoài ra khi hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài chúng ta sẽ có những cách tiếp cận mới , những tư duy đa chiều rất cần cho khoa học .
Bên cạnh những vấn đề vừa nêu ở trên thì vấn đề áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào ngành khảo cổ học ở Việt Nam cũng là vấn đề đáng để quan tâm , Ngày nay với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật trên thế giới diễn ra như vũ bão , nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng những phương pháp rất tiến bộ vào nghiên cứu khảo cổ học tuy nhiên những phương pháp đó cũng rất tốn kém và đòi hỏi đội ngũ cán bộ nghiên cứu phải có khả năng vận dụng , sử dụng , cập nhật những ứng dụng mới về lĩnh vực công nghệ thông tin nói riêng và những lĩnh vực liên ngành khác nói chung . Ở Việt Nam hiện nay chúng ta cũng có trang bị những trang thiết bị nghiên cứu khảo cổ học , nhưng nhìn chung so với thế giới thì vấn đề khoa học kỹ thuật trong ngành khảo cổ học của chúng ta còn chưa cập nhật đầy đủ so với thế giới . Mặt khác vấn đề sử dụng những trang thiết bị đó cũng vẫn còn bất cập , nhiều khi bỏ ra vài tỷ đồng để trang bị những máy móc phục vụ cho nghiên cứu , nhưng khi về nước thì những thiết bị đó không được sử dụng là bao do vấn đề đội ngũ khảo cổ học của chúng ta còn chưa được trang bị những kiến thức liên ngành nhiều .