Lăng
Võ Di Nguy
Họ
Vũ – Võ Việt Nam vốn có khá nhiều danh tướng cả đời tận trung báo quốc, hi sinh
vì nghĩa lớn. Trong các thời đại khác nhau đều có những tướng quân trung dũng,
tài ba, thao lược nơi chốn xa trường trực tiếp chỉ huy ba quân, tướng sỹ lập
nên công trạng lớn được sử sách lưu danh. Trong loạt bài về Đình, Chùa, Lăng,
Miếu của người Việt tại tp.HCM mà người viết đang thực hiện thì không thể không
nhắc đến lăng mộ của một vị tướng chỉ huy thủy quân dưới thời nhà Nguyễn đã
từng theo bước vua Gia Long ngược xuôi khắp nẻo trong sự nghiệp thống nhất sơn
hà và đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đó chính là
lăng của Bình Giang Quận Công Võ Di Nguy .
Lăng
Võ Di Nguy hiện nay tọa lạc tại số 19 đường Cô Giang, phường 2 quận Phú Nhuận,
thành phố Hồ Chí Minh, là một di tích kiến trúc được xếp hạng cấp quốc gia còn
lưu giữ lại được nhiều nét kiến trúc cổ kính. Vốn là một vị võ tướng từng theo
bước vua Gia Long chinh chiến, tung hoành ngang dọc và là một chỉ huy thủy quân
xuất sắc trong nhiều trận đánh nên Võ Di Nguy là một “Khai Quốc Công Thần” của
triều Nguyễn, chính vì thế nên sau khi ông qua đời vì trận mạc, vua Gia Long đã
tổ chức tang lễ cho ông rất trọng thể và cho xây dựng lăng mộ quy mô, cầu kỳ
trong đường nét kiến trúc như để thể hiện tấm lòng trân trọng của nhà vua tới
trung thần Võ Di Nguy .
Nhìn
một cách tổng thể thì lăng Võ Di Nguy bao gồm hai phần chính đó là đền thờ và
phần mộ. Đền thờ là nơi đặt bài vị, khám thờ, kiệu cũng như những sắc phong của
vua ban cho Võ Di Nguy. Phần mộ là nơi an táng thi hài của ông. Cả hai phần
kiến trúc này đều được xây dựng một cách quy mô, bề thế, và đạt được sự hòa hợp
tuyệt vời của yếu tố nghệ thuật, thể hiện sự oai phong, uy nghiêm của nơi an
nghỉ một vị danh tướng !
Đền
thờ lăng Võ Di Nguy được xây dựng sau khi đã dựng xong mộ phần. Ban đầu, đền
được xây dựng với những vật liệu truyền thống như hệ thống vì kèo bằng gỗ, mái
điện lợp ngói âm dương, tuy nhiên qua thời gian, phần kiến trúc này đã bị hư
hại đi nhiều, trải qua một số lần trùng tu, tôn tạo, điện thờ đã được xây dựng
lại với những vật liệu hiện đại như xi măng, bê tông cốt sắt…. Tuy nhiên đền
thờ vẫn mang dấp dấp của những tòa kiến trúc cổ với kết cấu điện theo kiểu tứ
trụ, phần mái bê tông gồm hai tầng, tám mái, tầng lớn ở dưới, tầng nhỏ ở trên
góp phần làm tăng chiều cao cũng như tạo vẻ to lớn, tráng lệ cho khu lăng. Mặt
khác kiểu kiến trúc này còn tận dụng được lượng ánh sáng tự nhiên cho khu vực
đền thờ. Phía trên gờ nóc mái của đền có trang trí cặp Lưỡng Long Tranh Châu bằng gốm men, đường nét tạo tác sắc xảo thể
hiện rõ cái hồn của tác phẩm. Hai con rồng với khí thế mãnh liệt đang hướng về
trái châu ở chính giữa với từng đường nét chuyển động cho thấy sức mạnh của
loài linh thú. Ngoài ra tại mỗi đầu đao cong của từng mái cũng được trang trí
những họa tiết hoa văn, biểu tượng thường thấy trong các kiến trúc cổ như hoa
văn dây lá hóa rồng độc đáo, cầu kỳ và tinh xảo.
Tọa
lạc trên một diện tích 130,5 m2 bên trong điện thờ chính có những
hàng cột bằng gỗ mun rất quý hiếm được dựng lên để chống đỡ hệ thống mái. Hai
bên điện thờ chính là Đông Lang và Tây Lang, Đông Lang là khu vực nhà khách của
lăng còn Tây Lang là nơi đặt bàn thờ của các vị trong Hội Phú Trung đã có công
lao gìn giữ, trông nom đền thờ của vị danh tướng, ngoài ra Tây Lang còn có vai
trò là một nhà kho .
Trong
chính điện là nơi đặt khám thờ của Bình Giang Quận Công Võ Di Nguy, ngoài ra
còn có một số những bàn thờ khác như bàn thờ Hội Đồng với chiều cao 1,2m chiều
rộng 1,09m được trang trí phía mặt ngoài với những bao lam theo kiểu chạm nổi
và đặc biệt là nghệ thuật khảm trai ở trình độ tinh xảo. Những họa tiết chim,
hoa, lá…..uyển chuyển linh hoạt và thật sống động. Ngoài ra trong chính điện
còn đặt bàn thờ cháu đích tôn của Võ Di Nguy là Võ Di Thái. Bàn thờ này cũng
được chạm khắc rất tinh xảo và có gắn bao lam gỗ với đề tài cúc điểu .
Chính
giữa điện thờ ở vị trí quan trọng nhất có đặt bàn thờ, trên bàn thờ có đặt khám
thờ của Bình Giang Quận Công Võ Di Nguy. Khám thờ Bình Giang Quận Công bằng gỗ
được tạo tác vô cùng tinh xảo, cao lớn theo lối chạm lộng và sơn son thiết vàng.
Phía trên cùng của khán thờ có chạm phù điêu “Lưỡng Long Triều Nhật” hình thức
chạm nổi với đường nét rất chi tiết, tả thực. Hai con rồng dũng mãnh uốn lượn
chầu hai bên mặt trời thể hiện dáng vẻ uy nghiêm cho toàn bộ khám thờ. Phía
dưới phù điêu là những hoa văn trang trí dạng “ô – hộc”” rất phổ biến trong nền mỹ thuật trang trí triều Nguyễn.
Bên trong những “ô – hộc” này, những
đề tài hoa văn, dây lá, cũng được thể hiện mềm mại và tự nhiên. Bốn chữ Hán “Uy
Liệt Nam Bang” chính giữa khám thờ được thiết vàng trên nền đỏ thể hiện được sự
uy dũng của bậc danh tướng nước Nam oai linh và lẫm liệt ! Tại khám thờ, hai
bên tả hữu có chạm nổi hai câu liễn đối chữ hán với nội dung : “Thượng tướng nước Nam , dũng liệt anh linh . Thủy vệ
trung quân, vang danh hiển hách”[1].
Cặp liễn đối này cho thấy cuộc đời oanh liệt đầy hào hùng của tướng Võ Di Nguy.
Bên trong khám thờ có viết một chữ Hán “Thần” thiết vàng điều này cho thấy Bình
Giang Quận Công đã trở thành bậc Sinh Vi
Tướng, Tử Vi Thần theo quan niệm truyền thống của dân tộc ta. Đồng thời
trong khám thờ cũng có một số vật
dụng dùng để đựng sắc phong của Vua phong cho Võ Di Nguy điểm nhấn của khám thờ
là bài vị của Bình Giang Quận Công được viết bằng Hán tự rất công phu với bút
lực mạnh mẽ, phóng khoáng. Hai bên khám thờ của Võ Di Nguy có hai khám thờ Tả Ban
và Hữu Ban cũng được chạm trổ cầu kỳ. Phía trước khám thờ Võ Di Nguy còn có một
cặp Lỗ Bộ ở hai bên tả hữu như càng làm tăng thêm sự trang trọng uy nghiêm. Mặt
khác đây cũng là những binh khí gắn liền với cuộc đời chinh chiến của một võ
tướng.
Trong
chính điện đền thờ còn có một số vật dụng thờ tự khác mà tiêu biểu là tượng
Bạch Mã được tạo tác bằng xi măng và thuyền Rồng bằng gỗ được chạm khắc hoa văn và
cẩn đồng tượng trưng cho những chiến thuyền mà Võ Di Nguy đã từng chỉ huy trong
các trận đánh. Đặc biệt chiếc Long sàn được làm bằng gỗ quý với kích thước
ngang 1,2m dài 1,6m cao 0,8m là một hiện vật quý với những đường nét tạo tác
đạt đến trình độ cao. Bốn chân Long sàn được chạm khắc thành hình rồng bốn móng[2]
với dáng vẻ mạnh mẽ, Long sàn còn được gắn bao lam với kỹ thuật chạm thủng
những đề tài như : chim Phượng Hoàng, Lưỡng Long Triều Nhật, khí thế dũng mãnh
gây ấn tượng trực giác mạnh. Trước Khám thờ Võ Di Nguy còn có cặp hạc bằng gỗ
đứng trên lưng rùa cao 1,8m thân dài 1m là một trong những motip truyền thống
thường thấy trong những kiến trúc đình, chùa, lăng miếu của người Việt thể hiện
vẻ thanh cao, vững chãi, thoát tục.
Phía
sau đền thờ là đến khu vực mộ phần của Võ Di Nguy. Có một bức phù điêu Long Mã
lưng mang hộp ấn lệnh đang vẫy vùng trong sóng nước với kích thước khá lớn
2,75m x 1,75m. Bức phù điêu này có vị trí ở phía mặt sau của bức tường chính
điện đền thờ, đối diện với cổng mộ, làm cho khung cảnh càng thêm phần uy nghi
trang trọng và cổ kính.
Tổng
thể khu vực mộ Võ Di Nguy có kích thước chiều dài 25,75m, chiều rộng 14,5m được
xây dựng vào năm 1801 với vật liệu là hợp chất ô dước cổ vốn được sử dụng rất
nhiều trong việc xây dựng lăng mộ ở khu vực Sài gòn – Gia định cũng như Nam Bộ
thế Kỷ XVIII – XIX. Kiến trúc tổng thể khu mộ bao gồm : cổng mộ, bình phong
tiền, sân tế, bàn hiến tế, nấm mộ và bình phong hậu. Khuôn viên kiến trúc mộ
phần đều được bao quanh bởi hệ thống tường (còn gọi là Uynh Thành hay Bửu
Thành).
Trong
cái không gian yên ả, tĩnh lặng của chốn nghìn thu này, tất cả mọi thứ như
ngừng lại chỉ còn thoảng đâu đó một chút gì u hoài trong dấu vết của thời gian
ngừng đọng trên những khối chất ô dước cổ trầm mặc cùng năm tháng! Trên cái nền
ấy chúng ta bắt gặp được sự đồng điệu giữa cảnh, tình và tổng thể kiến trúc.
Đầu tiên là phần cổng mộ được tạo tác trên chất liệu ô dước vững chắc tuy nhiên
nhờ những đường nét tạo tác, trang trí độc đáo và mềm mại, nên cổng mộ không
mất đi vẻ nhẹ nhàng, thanh thoát mà ngược lại còn có giá trị thẩm mỹ rất cao. Cổng
mộ rộng 2,05m cao 2,38m, gồm hai trụ cổng, trên đỉnh trụ được tạo tác hình búp
sen. Sau khu vực cổng mộ là tới bình phong tiền. Bình phong Tiền và bình phong
Hậu có tác dụng che chắn cho ngôi mộ và góp phần tạo nên sự uy nghi tráng lệ
cho ngôi mộ.
Bình
Phong Tiền mộ Võ Di Nguy có chiều cao 2,4m rộng 3,1m dầy 0,6 m được tạo tác bằng
chất liệu ô dước. Trên bình phong hiện còn lưu giữ những Hán tự cổ, tuy nhiên
đã mờ nhạt theo năm tháng. Những phù điêu trang trí trên bình phong tiền thật
mềm mại gồm những đề tài sơn thủy kết hợp với Tùng - Lộc thể hiện nên một bức
tranh thủy mặc rất có tình, những đường nét lượn cong của bình phong tại những
khu vực góc cạnh cũng được điêu khắc làm giảm đi sự cứng rắn của bình phong.
Một cặp lân cũng được khéo léo đặt hai bên, gắn kết với bình phong tiền như để
đỡ lấy tấm bình phong và canh giữ cho ngôi mộ. Cặp lân này được chế tác cũng từ
hợp chất ô dước với từng đường nét chạm khắc tinh xảo, chiều cao mỗi con là
1,6m dáng vẻ mỗi con đều thể hiện được sự hung giữ và khỏe mạnh với những đường
cơ bắp nổi rõ và cuộn lên trong tư thế quỳ hai chân sau, mắt được làm bằng gốm
màu đỏ hướng về phía nấm mộ như để canh giữ. Miệng hai con lân há rộng, những
xoắn ốc trên lưng được thể hiện rõ nét cũng như bộ móng vuốt sắc nhọn luôn sãn
sàng lao tới vồ lấy những kẻ xâm phạm chốn linh thiêng này .
Sau
bình phong Tiền là khu vực sân tế dài 14,5m rộng 5,76m, hai bên sân có hai bức
bình phong nữa đối xứng nhau qua sân tế. Hai bức bình phong này với hệ thống
chân dạng sập quỳ tạo nên sự uy nghiêm, kính cẩn của nơi thờ tự. Hai chân dạng
sập quỳ này cũng được trang trí những họa tiết hoa văn mềm mại thể hiện được
nghệ thuật tạo hình của người thợ đương thời trên loại hợp chất cổ rất rắn chắc.
Hai bức bình phong ở đây cũng được khắc những Hán tự cổ, tuy nhiên do chữ đã bị
mờ nhạt vì thời gian nên không dịch được nữa. Hai bên tả hữu của mỗi bức bình
phong đều có hai trụ, trên hai trụ đó có đặt tượng hai con lân với đường nét
tạo tác không khác biệt với cặp lân cạnh bức bình phong Tiền
Khu
vực sân tế tiếp theo sau thông qua một cổng mộ thứ hai có kích thước lớn (rộng
3,45m) hai bên cổng mộ thứ hai này có hai trụ cổng cao 3,42m trên đỉnh trụ có
điêu khắc phù điêu búp sen. Hai cột trụ cũng được trang trí bởi những phù điêu
hoa, lá, cỏ cây, tùng điểu, mai điểu…..Trên hai cột trụ cổng này cũng có khắc
những Hán tự, tuy nhiên do thời gian quá lâu nên hiện cũng không còn đọc được .
Qua
khỏi lớp cổng thứ hai này là tới mộ của Bình Giang Quận Công Võ Di Nguy. Phía
trước mộ của ngài có xây dựng một bàn hiến tế với chân dạng sập quỳ có kích
thước dài 2,17m rộng 1,16m cao 0,53m được kê trên bốn con nghê với đường nét
tạo tác tinh xảo. Bàn hiến tế được dùng để đặt các vật phẩm dâng lên cho Bình
Giang Quận Công. Phía sau chiếc bàn tế lễ này là ngôi mộ của Bình Giang Quận Công
Võ Di Nguy có kích thước hình chữ nhật với chiều ngang 4,14m, cao 0,62m dài
4,54m được dựng nên hoàn toàn bằng hợp chất ô dước. Hai bên mộ là tường bửu
thành bao quanh, mặt trong tường có những ô hình chữ nhật với kích thước 0,4m x
0,6m được trang trí phù điêu sinh động với những đề tài hoa mai, hoa sen, chim
trĩ sinh động cùng cảnh sắc thiên nhiên, sông nước mênh mông giàu sức biểu cảm
của vùng Nam Bộ !
Bình
Phong Hậu kết thúc phần kiến trúc của khu mộ. Bình phong hậu cao lớn và uy nghi
với kích thước chiều dài 5,78m, cao 3,1m chiều
dầy 1m bằng hợp chất ô dước sừng sững che chở cho khu lăng và gây một ấn
tượng mạnh cho thị giác người quan sát. Tổng thế bình phong hậu có hình chữ
nhật hai bên uốn cong với chân có dạng sập quỳ uy nghiêm. Mặt trong bình phong
hậu có tạo hình hai bia mộ đó là của Võ Di Nguy và vợ (chánh thất Lê Thị Mười)
của ông. Toàn thể bình phong là một tác phẩm nghệ thuật được tạo tác vô cùng
khéo léo, cầu kỳ với những phù điêu hình mặt trời trên đỉnh bình phong và những
hoa văn dây lá uốn lượn. Đặc biệt ở phần lượn cong hai bên bình phong hậu được
tạo tác phù điêu hai con rồng dũng mãnh đang lẩn khuất trong mây (long ẩn vân)
rất độc đáo và có giá trị nghệ thuật to lớn
Lăng
Bình Giang Quận Công Võ Di Nguy là một công trình công trình kiến trúc nghệ
thuật cấp quốc gia còn lưu giữ được nhiều nét kiến trúc cổ độc đáo ở khu vực Sài
Gòn – Gia Định nói riêng và vùng đồng bằng Nam Bộ nói chung. Lăng có giá trị
lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật to lớn nên được bộ văn hóa công nhận là di tích
kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo quyết định số 43- VH/QĐ ngày 7/1/1993
Tài Liệu Tham Khảo :
Phạm Hữu Mý, Nguyễn Văn Đường ,
Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Ở Thành Phố Hồ Chí Minh, NXB Tổng Hợp TP.Hồ Chí Minh
Năm 2007, Trang 296
Bảo Tàng Cách Mạng Thành Phố Hồ
Chí Minh Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ Năm 1998
Sở Văn Hóa Thông Tin TP.HCM, Di
Tích Lịch Sử Văn Hóa TP.HCM Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian, Ban Quản Lý Di
Tích Lịch Sử Văn Hóa Và Danh Lam Thắng Cảnh Năm 2001