Giải Thích Ý Nghĩa Các Biểu Tượng Trang
Trí Tại Đình, Chùa, Lăng, Miếu Ở TP.Hồ Chí Minh .
Lời
Tựa
Đất nước
Việt Nam có một vị trí địa lý chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, vị
trí chiến lược ấy thể hiện là cầu nối giữa khu vực Đông Nam Á lục địa và Đông
Nam Á hải đảo, đây là một trạm dừng chân, một ngã tư đường trong những chuyến
hải trình từ thời cổ đại mang theo nó là những đoàn thương nhân, truyền đạo,
những nền văn minh trong khu vực và trên thế giới. Chính bởi vị thế chiến lược
này, nên từ rất sớm sự giao lưu văn hóa đã diễn ra ở đây một cách mạnh mẽ và
liên tục trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Từ hai nền văn minh lớn trong khu
vực đó là Ấn Độ và Trung Quốc, nền văn minh Việt Nam có cơ hội hấp thu, tiếp nhận và
bản địa hóa những yếu tố văn minh ngoại nhập góp phần làm đa dạng và phong phú
cho nền văn minh vật chất và tinh thần to lớn của chính mình .
Văn minh vật chất của người Việt rất đa dạng và phong
phú, ẩn trong đó là cái hồn, cái tinh hoa của cả một nền văn hóa trong sự giao
lưu, tiếp nhận, đan xen và bản địa hóa. Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết
này người viết xin trình bày một mảng nhỏ trong nền văn minh vật chất to lớn
của người Việt đó là những biểu tượng trang trí trong các đình, chùa, lăng miếu
tại khu vực TP. Hồ Chí Minh. Những biểu tượng này vừa có giá trị thẩm mỹ to lớn
lại vừa mang trong mình những tinh hoa và ý nghĩa triết lý thâm sâu mà cổ nhân
muốn truyền đạt lại cho hậu thế thông qua những tác phẩm có tính nghệ thuật cao,
được tạo tác công phu, cầu kỳ, tỷ mỷ từ đôi bàn tay khéo léo của những nghệ
nhân nước Việt trong suốt chặng đường lịch sử đầy biến động, hào hùng của dân
tộc.
Trước hết, chúng ta cần hiểu rằng biểu tượng là sản
phẩm của quá trình tư duy trừu tượng đã được khái quát, cô đọng ở mức độ cao
nhất. Chính vì thế, biểu tượng mang ý nghĩa to lớn trong việc truyền tải thông
tin, ý tưởng của các thế hệ tiền nhân đi trước, do đó việc giải mã các biểu
tượng này cũng cần phải có một tư duy mang tính trừu tượng nhất định. Mặt khác
các biểu tượng trong quá trình giao lưu, đan xen văn hóa có sự tác động qua lại,
tính dân tộc đã làm bản địa hóa, tạo nên những biến đổi về hình thức làm cho
các biểu tượng này càng thêm phần phức tạp, khó hiểu, khó tiếp cận .
Các biểu tượng trang trí trong các đình, chùa, lăng,
miếu ở Việt Nam
nói chung có lịch sử hình thành và phát triển từ rất lâu, khó có thể biết được thời
gian chính xác hình thành các biểu tượng này, cố nhiên các biểu tượng trong
diễn trình lịch sử có sự giao lưu và biến đổi theo từng thời kỳ, giai đoạn lịch
sử nên ít nhiều cũng có những thay đổi về mặt hình dáng hay cách thể hiện hình
thức của biểu tượng ấy. Tuy nhiên, vể cơ bản thì nội dung ẩn chứa bên trong
những biểu tượng đó là không thay đổi .
Theo dòng chảy của lịch sử cộng với những biến động có
tính chính trị - xã hội của đất nước, vùng đất phương Nam trù phú dần được khai phá, mở
mang thêm trù phú, tốt tươi. Những lưu dân của vùng Thuận – Quảng đã mang theo
hành trang là cả một nền văn hóa vật chất và tinh thần to lớn của người Việt vào
miền đất mới! Chính tại nơi đây, trong công cuộc khai hoang lập ấp đầy khó khăn
của mình những lưu dân Việt đã xây dựng những đình, chùa, lăng miếu phục vụ cho
nhu cầu tín ngưỡng truyền thống. Những ngôi đình, ngôi chùa hay lăng miếu này,
ban đầu được xây dựng đơn sơ, giản dị nhưng dần dà cùng với đời sống vật chất
no đủ của người dân vùng đất mới thì những công trình này ngày càng to lớn và
được hoàn thiện về mọi mặt. Nhưng dù là một ngôi đình, ngôi chùa nhỏ bé lẩn
khuất sau những hàng cây, rặng tre của miền quê sông nước yên ả hay tới những
ngôi đình, những tòa đại bửu sát uy nghi tráng lệ của một vùng đô hội “trên bến
dưới thuyền” thì những biểu tượng trang trí trong những công trình kiến trúc
này là không thể thiếu. Những biểu tượng ấy có thể xem là một phần tinh hoa
trong văn hóa truyền thống của người Việt mang đậm chất tư duy trừu tượng của
những triết lý nhân sinh !
Nghệ thuật điêu khắc, trang trí biểu tượng trong những
công trình kiến trúc cổ của Việt Nam nói chung cũng như tại khu vực Nam bộ nói
riêng phần lớn tập trung vào những motip hoa văn, phù điêu thuộc những chủ đề
cơ bản bao gồm: thiên nhiên, các loài
cây cỏ hoa trái và các loài linh thú, động vật dưới nước hay trên cạn. Những
khung cảnh thiên nhiên sóng nước bao la, những loài cây, danh mộc tượng trưng
cho sự thanh cao thuần khiết chính trực của con người như Tùng, Trúc, Cúc,
Mai…….dây lá hóa rồng, những loài linh thú của bộ tứ linh (Long, Lân, Quy,
Phụng) hay đến những loài động vật dân dã như cá chép, chim muông, sóc,
dơi…v….v….Tất cả những biểu tượng đó đều được bàn tay khéo léo của những nghệ
nhân tạo tác thành những tác phẩm có giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ cao, làm tôn
thêm vẻ tráng lệ, đường bệ của tổng thể kiến trúc cũng như mang những ý nghĩa
triết lý thâm sâu của tiền nhân đi trước. Chính vì thế, việc nghiên cứu và giải
thích các biểu tượng, phù điêu trang trí trong hệ thống đình, chùa, lăng miếu
đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm về nguồn cội, cũng như hiểu được,
thẩm thấu được cái tinh hoa ẩn tàng, những giá trị văn minh vật chất và tinh
thần to lớn của người Việt .
I/
Các Biểu Tượng Trang Trí Hình Linh Thú Và Động Vật Thường Thấy Trong Đình,
Chùa, Lăng Miếu Tại Khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh
a/ Trang Trí Đề Tài Tứ Linh
Bộ Tứ Linh bao gồm: Long,
Lân, Quy, Phụng vốn là bốn linh vật linh thiêng trong truyền thống văn hóa
của người Việt. Trong bốn linh vật kể trên thì hai linh vật đầu gồm Long, Lân là những sản phẩm do trí tưởng tượng của
con người được hình thành, tạo tác nên từ việc lắp ghép những bộ phận khác
nhau của những loài động vật khác nhau. Hai linh vật sau là “Quy” và “Phụng”
vốn là những con vật có thật được thêm vào để trở thành bộ tứ linh với những ý
nghĩa triết học sâu sắc.
Nếu như trong xã hội phong kiến phương Bắc thì bộ tứ
linh dường như là sản phẩm, biểu tượng chỉ giành riêng cho chính quyền phong
kiến thì ở Việt Nam lại có sự khác biệt tương đối rõ rệt ở chỗ chính quyền phong kiến Việt Nam không chỉ
độc chiếm việc sử dụng trang trí tứ linh cho riêng bản thân mình mà những motip
trang trí này còn được sử dụng rộng rãi trong hệ thống các kiến trúc dân gian
như đình, chùa, lăng miếu…..Và theo một lẽ tự nhiên, những linh vật này tồn
tại và bám rễ rất sâu trong hệ thống văn hóa – tín ngưỡng truyền thống của
người Việt. Những linh vật này được thổi vào mình cái luồng khí linh thiêng
nghìn năm của văn hóa, đất nước, dân tộc Việt Nam .
Cũng do ăn sâu vào tiềm thức người Việt nên “tứ linh”
đã theo hành trang của những lưu dân xứ Thuận – Quảng vào khai phá vùng đất Nam
bộ trù phú để rồi được thể hiện sống động trong những công trình “tín ngưỡng –
tôn giáo” dân gian như đình, chùa, lăng miếu với những phong thái mang dáng dấp
của vùng Nam bộ trù phú, tốt tươi. Trong tứ linh đứng đầu là “Long” tức là con rồng, chúng ta thấy
rằng con rồng đã gắn bó từ buổi đầu với nền văn minh sông nước của người Việt, hình ảnh những con Giao Long trên chuôi
gươm đồng trong nền văn hóa Đông Sơn cách nay hơn 2500 năm được nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng là tiền thân của
hình ảnh con rồng sau này. Mặt khác, nguồn gốc của người Việt với truyền thuyết
“con rồng cháu tiên” đầy tự hào cũng cho thấy mối liên hệ mật thiết của hình
tượng con rồng trong tâm thức người Việt. Hình ảnh con rồng được tưởng tượng từ
sự lắp ghép nhiều bộ phận khác nhau của nhiều loài thú khác như: mặt cá sấu, tai
thú, trán lạc đà, mũi sư tử, móng chim ưng...
và là một loài có sức mạnh vô song thường được biểu trưng cho hình ảnh của Vua trong chế độ phong kiến. Tuy nhiên,
như đã trình bày ở trên hình tượng con rồng cũng phát triển mạnh mẽ trong nghệ
thuật, kiến trúc dân gian chứ không chỉ là của riêng giai cấp phong kiến! Có chăng sự khác biệt chỉ là ở chỗ con rồng tượng trưng cho Vua thì có
năm móng còn con rồng trong kiến trúc nghệ thuật dân gian chỉ có ba hoặc bốn
móng. Hình tượng rồng được tạo tác rất nhiều trong các công trình tín
ngưỡng – tôn giáo dân gian của Việt Nam mà tiêu biểu có thể thấy trong các công
trình kiến trúc đình chùa trên cả nước nói chung và khu vực tp. Hồ Chí Minh nói
riêng. Trong các ngôi đình tại khu vực tp.HCM, hình tượng con rồng thường được
thể hiện trước nhất trên nóc của ngôi đình với motip “Lưỡng Long Triều Nhật” hay “Lưỡng Long Tranh Châu” ở vào vị trí
quan trọng và tôn nghiêm nhất như vậy chắc hẳn hình tượng rồng phải mang một ý
nghĩa triết lý nhân sinh sâu sắc nào đó ? Trước hết, chúng ta nhận thấy rằng
ngôi đình làng dù ở Bắc bộ, Trung bộ, hay Nam bộ thì đều có ba chức năng chính
đó là: chức năng hành chính, chức năng
tín ngưỡng và chức năng văn hóa. Ba chức năng này thống nhất với nhau trong
một chỉnh thể của ngôi đình. Như thế ở chức năng đầu tiên là chức năng hành
chính thì phải chăng hình tượng con rồng ở vị trí quan trọng nhất chính là biểu
tượng cho chính quyền phong kiến ở mỗi làng quê nước Việt ? Ở chức năng thứ hai
là chức năng tín ngưỡng – văn hóa thì hình ảnh con rồng tượng trưng cho nền văn
minh nông nghiệp lúa nước. Chữ “Long” tại các đình chùa là chữ Hán, tuy nhiên theo
những nhà ngôn ngữ cổ Đông Nam Á thì chữ long là vốn có phiên âm từ âm cổ
“klong” hoặc “krong” vốn có nghĩa là sông nước, tới đây liệu rằng chúng ta đã
có thể phần nào hình dung hay mường tượng về mối dây liên hệ giữa hình tượng
con rồng với những đồng ruộng lúa nước vốn là cái nôi của nền văn minh người
Việt. Mặt khác, đối với nền văn minh nông nghiệp lúa nước thì nguồn nước đóng
một vai trò quan trọng quyết định tới mùa vụ nông nghiệp và phải chăng, việc đặt
hình tượng cặp lưỡng long trên đỉnh nóc ngôi đình cũng mang ý nghĩa cầu cho mưa
thuận gió hòa mùa màng tốt tươi.
Motip lưỡng long triều nhật
hay lưỡng long triều nguyệt được thể hiện ở dạng cặp đôi như thế có rất nhiều
khả năng sẽ có một con đực và một con cái biểu tượng cho lối tư duy lưỡng
nguyên có âm có dương của cư dân nông nghiệp. Nhờ có âm có dương mà sản sinh ra
mọi thứ và mùa màng bội thu, đây là hình thức tín ngưỡng phồn thực rất phổ biến
trong các nền văn minh nông nghiệp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở rất nhiều nơi
trên thế giới trong đó đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra trong các ban
thờ, hay các bức bao lam trong điện thờ tại những ngôi đình khu vực tp.HCM cũng
có chạm nổi hay chạm lộng hình ảnh rồng có giá trị thẩm mỹ cao, được sơn son
thiết vàng hết sức cầu kỳ tinh xảo.
Trong kiến trúc chùa, hình
tượng rồng cũng được thể hiện rất nhiều tuy nhiên hình tượng rồng trong chùa
hoàn toàn không hề có ý thể hiện quan niệm “Vương quyền” của chế độ phong kiến
mà đó là sự hộ trì và khuất phục trước sức mạnh của Phật pháp. Trong các ngôi
chùa thường có bức tượng “Cửu long” thể hiện chín con rồng phun nước tắm cho
đức phật lúc ngài đản sinh. Hình tượng rồng cũng được điêu khắc trên những bệ
tượng ngồi của đức phật, điều đó thể hiện sự khuất phục của loài mãnh thú trước
sức mạnh Phật pháp vô biên .
Linh vật thứ hai trong bộ tứ
linh là “Lân”. Lân thực chất có tên
gọi đầy đủ là kỳ lân trong đó “Kỳ” là con đực còn “Lân” là con cái. Cặp kỳ lân
cũng thường được trang trí trong các công trình kiến trúc như đình, chùa, lăng
miếu với nhiệm vụ bảo vệ cũng như mang đến những điềm may mắn. Theo truyền
thuyết thì kỳ lân cũng thường báo hiệu cho sự xuất hiện của một hiền nhân ! Là
một con vật của trí tưởng tượng, kỳ lân cũng có hình dạng của sự lắp ghép các
bộ phận khác nhau của nhiều loài thú chẳng hạn như: có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò.
Tuy nhiên, trong cách
thể hiện, kỳ lân cũng có ít nhiều những biến đổi tùy theo từng vùng miền. Tại
các công trình kiến trúc cổ ở tp.HCM, thì hình ảnh kỳ lân và các biến thể của nó như Long Mã là rất
thường thấy vừa có tác dụng tăng thêm phần uy nghi, lại vừa mang trong mình
những ý nghĩa thâm sâu của các bậc tiền nhân đi trước. Long Mã là một trong
những biến thể về hình dáng của kỳ lân, với đầu rồng mình ngựa, toàn thân có
vảy rồng chạy trên sóng nước hình dáng vô cùng dũng mãnh thường được thể hiện
trong các bức bình phong tiền hay hậu của lăng mộ các vị võ tướng . Vì sao Long
Mã lại hay được thể hiện trong các lăng mộ ? có lẽ bởi vì “Long” là rồng, rồng
thì phải bay lên biểu thị cho trục tung còn “Mã” là ngựa, ngựa chạy trên mặt
đất tức là trục hoành . Như vậy Long Mã là hình ảnh biểu trưng cho sự tung
hoành của đấng nam nhi trong thiên hạ, cũng vì lẽ đó mà trong lăng mộ các bậc
võ tướng như Tả Quân Lê Văn Duyệt , hay Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu, Bình Giang
Quận Công Võ Di Nguy….. đều có bức bình phong với phù điêu Long Mã cõng Hà Đồ
như biểu trưng cho chí khí cũng như sự tận trung báo quốc của các vị danh tướng
này .
Linh vật thứ 3 trong
bộ tứ linh là “Quy” quy là rùa. Rùa
là linh vật xuất hiện trong hầu hết các đình, chùa, lăng, miếu tại Việt Nam. Với
dáng vẻ vững chắc được tạo nên bởi bốn chân xòe rộng theo chiều ngang và chiếc
mai cứng tạo nên sự vững chắc cho toàn bộ thân thể. Rùa thường tượng chưng cho
sự vững chắc lâu bền, đồng thời rùa cũng là loài vật có tuổi thọ rất lâu nên cũng
mang hàm ý biểu trưng cho sự trường thọ. Trong các đình, chùa, lăng miếu rùa
thường đi với hạc trong motip hạc đứng trên lưng rùa. Hạc cũng là con vật rất linh thiêng và thanh cao được nhận thấy dễ
dàng ngay trong hình dáng của chúng với chiếc cổ và chân dài, toàn bộ cơ thể
thanh mảnh toát lên sự quý phái thanh lịch. Hạc đứng trên lưng rùa có ý nghĩa
trước hết ở mặt hình tượng rất sâu sắc, cái thanh mảnh của hạc đứng trên cái
vững chắc của rùa tạo nên sự trường tồn của cái tao nhã, thanh cao. Mặt khác hạc
là linh vật mang dương khí, còn rùa là linh vật thuộc hành thủy đại diện cho
hướng Bắc và mang âm khí, như thế phải chăng motip hạc trên lưng rùa biểu trưng
cho sự giao hòa âm dương ? Bên cạnh đó rùa luôn luôn biểu hiện cho tính chịu
đựng nhẫn nhịn cả đời mang vác nặng mà chả chút lầm than : “thương thay thân
phận con rùa, xuống sông đội đá lên chùa đội bia” đức hạnh nhẫn nhịn là một đức tính vô cùng quý trong đạo phật ! con
rùa có lẽ cũng là biểu tượng của đức tính này .
Linh vật thứ tư trong
“Tứ Linh” thường được trang trí tại đình, chùa, lăng, miếu là “Phụng” phụng là chim phụng. Theo một số
quan điểm thì phụng là chim cái còn loan là chim đực. Chim phụng có hình dáng
đẹp đẽ và to lớn với từng bộ phận trên cơ thể mang những ý nghĩa biểu trưng cao
: “đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng
trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh
tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó
bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ”[1]chim phụng thường được trang trí trong những bức bao lam tại các ngôi cổ tự
tại tp.HCM hay trên các bờ dốc mái của những đình, chùa, lăng miếu. Chim phụng
cũng tượng trưng cho hình tượng của thánh nhân và sự đức hạnh .
B/ Biểu Tượng Một Số
Loài Vật Khác
Ngoài bộ tứ linh được
trang trí như đã trình bày, trong phần lớn các đình, chùa, lăng miếu tại khu
vực tp.HCM nói riêng và cả nước nói chung thì bên cạnh đó những loài thú khác
cũng được tạo tác khéo léo trong các công trình kiến trúc này với những đường
nét và nghệ thuật tạo hình vô cùng đặc sắc góp phần hình thành nên sự uy
nghiêm, kính cẩn cho toàn bộ kiến trúc. Trong số những loài vật đó, đầu tiên
phải kể đến là hình ảnh con hổ .
Hổ là một loài mãnh
thú được mệnh danh là chúa tể sơn lâm có sức mạnh làm kinh sợ muôn loài. Trong
các ngôi đình ở Nam Bộ nói chung và khu vực tp.HCM nói riêng thì hình ảnh hổ
xuất hiện rất nhiều trong các bức bình phong và được dân gian tôn kính gọi với
cái tên là “ông hổ” Theo quan niệm dân gian thì “ông hổ” có khả năng tiêu trừ
tà ma bảo vệ cho đình chùa, miếu võ. Ngoài ra hình ảnh ông hổ được tạo tác to
lớn, đầy vẻ dũng mãnh cũng làm cho toàn bộ khung cảnh của nơi thờ tự thêm phần
uy nghi tôn nghiêm. Những ngôi đình nổi tiếng tại tp.HCM như : đình Thông Tây
Hội (quận Gò Vấp), đình Hạnh Thông (quận Gò Vấp), đình Bình Đông (quận 8), đình
Phú Nhuận (quận Phú Nhuận)…… đều có những bức bình phong thể hiện ông hổ trong
tư thế uy dũng, tráng kiện.
Hình tượng con ngựa
cũng là motip rất thường thấy trong các ngôi đình cổ ở Nam bộ. Cặp ngựa thường
được chưng phía trước khám thờ thần trong chính điện với kích thước như ngựa
thật. Con ngựa biểu trưng cho sự dũng mãnh, tận tụy và trung thành, nên thường
có câu : “khuyển mã trung thành”mặt
khác con ngựa cũng là loài động vật ăn cỏ, tính thường hiền lành toát lên vẻ
thanh cao. Ngựa gắn với chiến trận, đao binh và là vật cưỡi không thể thiếu của
các vị danh tướng. Quan điểm dương sao âm vậy chính là tiền đề cho việc trưng
bày cặp ngựa trong chính điện của những ngôi đình hay lăng miếu với mục đích
làm vật cưỡi cho những vị : “sinh vi tướng tử vi thần”!
Hình tượng con cá “Ngư” cũng được thể hiện một cách sống
động trong hầu hết những chi tiết chạm khắc trang trí tại các công trình kiến
trúc cổ. “Ngư” đồng âm với « dư » có nghĩa là dư giả sung túc, hình
ảnh con cá thường được thể hiện trong các motip hoa văn sóng nước tạo nên sự
hòa hợp trước hết về mặt cảm quan. Ngoài ra ở khu vực nam bộ nói chung thì con
cá đã trở nên rất thân thiện với con người bởi môi trường sông nước đóng vai
trò quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây .
Hình ảnh của những
chú dơi cũng thường thấy tại những motip trang trí trong những công trình kiến
trúc đình, chùa, miếu võ. Đây là motip trang trí ảnh hưởng của văn hóa Trung
Hoa bởi lẽ trong tiếng Hán con dơi đồng âm với chữ « Phúc ». Trang
trí con dơi cũng nhằm mục đích mong muốn phúc đức, (phúc đáo). Trong các bức
bao lam chạm khắc tại chùa Giác Viên hay Giác Lâm có rất nhiều các biểu tượng
hình con dơi cũng với ý nghĩa như đã nêu ở trên .
Một motip rất thường
thấy trong các bức bao lam hay trang trí chạm nổi tại các ban thờ, khám thờ ở
Nam Bộ đó là motip bá điểu và sóc nho. Phải chăng do môi trường thiên nhiên trù
phú, giàu có của vùng đồng bằng Nam Bộ mà những con vật trên được tạo tác với
một dáng vẻ rất thản nhiên mặc sức vui đùa, leo trèo và bay lượn. Không có một
sự gò bó nào trong từng đường nét thể hiện và điều ấy dường như cũng phản ánh
tính cách của con người Nam Bộ ưa phóng khoáng tự do ?
II/ Các Biểu Tượng Trang
Trí Thiên Nhiên Tại Đình, Chùa, Lăng Miếu ở Tp.HCM
Môi trường thiên nhiên luôn có những tác động to
lớn tới mọi hoạt động sống của con người, từ rât sớm con người đã khéo léo thể
hiện một cách sinh động môi trường thiên nhiên thông qua các hoạt động có tính
nghệ thuật của mình. Trong nền mỹ thuật tôn giáo-tín ngưỡng tại Việt Nam, hình
ảnh thiên nhiên luôn được khéo léo lồng ghép trong từng họa tiết tạo nên nét
độc đáo, mỹ thuật trong toàn thể kiến trúc. Không chỉ dừng lại ở đấy, các hình
ảnh thiên nhiên được tạo tác ngoài tính chất nghệ thuật còn mang trong mình
những triết lý uyên thâm sâu sắc mà tiền nhân đã biểu tượng hóa, nghệ thuật hóa
thành những biểu tượng có giá trị nhân văn cao đẹp làm nền tảng cho những giá
trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Một trong các biểu tượng trang trí có tính thiên
nhiên tại các đình, chùa, lăng miếu ở khu vực tp.HCM nói riêng cũng như cả nước
nói chung là những biểu tượng cây cối, hoa lá tượng trương cho mùa cũng như
những phẩm chất đạo đức thanh cao của con người như : Tùng, Trúc, Cúc,
Mai........ Cây tùng vốn là loài cây thân mộc, thường to lớn (cao từ 15-20m)
mọc ở xứ hàn, trên những sườn non cao, sức sống mạnh mẽ bền bỉ, bốn mùa cây đều
xanh tốt, vương lên trên đất đồi núi khô cằn, sỏi đá tượng trưng cho ý chí mạnh
mẽ, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách của cuộc đời. Cây Tùng thường
mọc ở những nơi rừng sâu núi thẳm, rêu phong trầm mặc tượng trưng cho sự ẩn cư,
thoát tục của bậc thánh nhân trong thiên hạ. Trong trang trí đình, chùa, miếu
võ cây tùng thường được tạo tác thật nghệ thuật trong motip Tùng-Hạc quen
thuộc, cách thể hiện sự phối hợp giữa hai loại động thực vật có giá trị biểu
trưng cho sự thanh cao này đem đến nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc, motip này
thường được thể hiện bằng cách chạm khắc trên bộ khung sườn của kiến trúc hay
trên những bộ vì kèo gỗ bằng danh mộc thường thấy. Bên cạnh cây Tùng mạnh mẽ,
uy nghiêm, tượng trưng cho dáng dấp của người quân tử thì hình ảnh cây Trúc lại mang một dáng vẻ cũng rất
thanh cao, biểu hiện sự nho nhã của bậc nho sinh. Cây trúc vốn rỗng ruột và
luôn mọc thẳng thể hiện sự chí công vô tư, không để bụng, không luồn cúi cầu
danh lợi, đây là bản chất của người quân tử. Xét về mặt mỹ thuật, toàn bộ cây
trúc từ gốc, thân, lá đều mọc một cách hài hòa, cân xứng dáng hình thanh thoát
biểu trưng cho sự thanh cao, thuần khiết. Mặt khác, cây trúc cũng thường mọc
rất nhiều ở khu vực Á Đông nó cũng phù hợp và từ lâu đã trở thành biểu tượng
của nghệ thuật trang trí, chạm khắc tại rất nhiều quốc gia thuộc xứ sở huyền bí
này.
Hoa Cúc là một motip quen thuộc
thường thấy trong nghệ thuật trang trí tại phần lớn đình, chùa. Hoa cúc có màu
vàng biểu thị cho sự đài các, kiêu sa, vương giả, phú quý. Hoa cúc là biểu
tượng của mùa thu, nó phảng phất một chút buồn nhè nhẹ, thanh cao ở độ giữa thu
trong cái tiết trời se lạnh, khiến người ta bâng khuâng, xao xuyến, trầm lắng.
Hình ảnh hoa cúc thường được khéo léo tạo tác khá nhiều trong những ngôi đình,
chùa tại tp.hcm nói riêng cũng như cả nước nói chung, tại đó hoa cúc thường
được thể hiện với môtip dây lá hòa quyện vào nhau trong những bức bao lam, vì
kèo (thường là bộ Cúc-Trĩ) hay trong những bức tranh giàu cảm xúc về mùa thu.
Hoa cúc cũng thường được chạm khắc trong tư thế khai hoa thể hiện sự viên mãn,
tràn đầy, ấm no hạnh phúc. Bên cạnh hoa cúc thì trong trang trí mỹ thuật tại hệ
thống đình, chùa, lăng miếu hoa mai
cũng luôn được thể hiện một cách thanh lịch tao nhã gợi nên sắc xuân tươi vui
ngập tràn. Cây mai với thân hình rắn chắc, phong sương, hấp thu sinh khí của
trời đất đơm hoa vào mùa xuân là mùa mà trời đất giao hòa, vạn vật tốt tươi, có
hai loại mai, mai trắng (bạch mai) tượng trưng cho sự trong trắng, thuần khiết
nơi chốn tâm linh, mai vàng (màu vàng thuộc hành thổ, tượng trưng cho sự phú
quý, anh lành). Hoa mai thường có nhiều cánh đan xen vào nhau với mùi hương
thoang thoảng thể hiện sự trang nhã, thanh tịnh. Trong trang trí mỹ thuật hình
ảnh cây mai thường được tạo tác với dáng vẻ xù xì ở phần thân gốc, cành thường
khẳng khiu thể hiện dáng già nua trầm mặc, đặc biệt trong các motip chạm khắc
trong các bao lam, cửa võng cây mai thường được tạo dáng « hóa rồng »
để tăng thêm phần trang trọng cũng như tính mỹ thuật của tác phẩm. Bên cạnh đó,
hoa mai cũng thường được phối trí thể hiện trong bộ mai điểu truyền thống làm
tăng tính nghệ thuật, nho nhã cho toàn bộ kiến trúc.
Hoa đào cũng là biểu tượng của
mùa xuân ở những vùng hàn đới, hoa đào từ lâu đã đi vào thơ ca, nghệ thuật không
chỉ ở việt nam mà rất nhiều quốc gia khác ở khu vực châu á như : trung
quốc, nhật bản, triều tiên…… hoa đào với sắc đỏ, điểm xuyến trong cái tiết trời
se lạnh đầu xuân của vùng hàn đới tạo nên bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp, hữu
tình. Cũng giống như hoa mai, cây hoa đào thường khẳng khiu, xù xì thể hiện sự
trường thọ nhưng cũng nhất bậc thanh cao. Hoa đào còn tượng trưng cho vẻ đẹp
hiều hậu, nhân từ của người phụ nữ Á đông (người phụ nữ đẹp có đôi má đào hồng
hây hây) trong điêu khắc trang trí, toàn thể cây hoa đào cũng thường được mô tả
một cách sinh động với dáng vẻ « hóa long » hoặc phối hợp với môtip
dây lá cầu kỳ, mang tính nghệ thuật cao. Tuy nhiên mô thức này thường được sử
dụng trong những ngôi đình, chùa có niền đại khá muộn.
Bên cạnh bốn loài hoa đặc sắc nói trên, trong
trang trí mỹ thuật tại các công trình kiến trúc cổ ở tp.hcm nói riêng cũng như
cả nước nói chung còn có một số loài hoa trái, dây lá, thực vật khác cũng
thường được sử dụng trong trang trí với tính nhân văn, biểu trưng cho sự thanh
cao, thoát tục của chốn linh thiêng như : Hoa sen, hoa mẫu đơn, bầu hồ lô,
quả lựu, nho, các hoa văn motip dây lá hóa rồng........ cũng đều được tạo tác
hết sức cầu kỳ cho thấy trình độ mỹ thuật của người thợ thủ công đương thời
cũng như những quan niệm nhân sinh quan có tính triết học sâu sắc. Hoa sen vốn rất quen thuộc với người
Việt, là một loài hoa được biết đến trong các tôn giáo lớn của nhân loại
như : Phật giáo, Hindu giáo, hoa sen mang trong minh một tinh thần nhân
văn sâu sắc. Hoa sen mang một nét đẹp giản dị và thuần khiết, mùi hương thoang
thoảng thật nhẹ mọc lên từ ao hồ, sình lầy song hoa sen luôn toát lên vẻ thanh
cao, thoát tục nó biểu trưng cho sự gìn giữ, tu dưỡng phẩm hạnh giữa đời thường
còn nhiều ô tạp của bậc chính nhân. Hoa sen được trang trí rất nhiều trong
những ngôi chùa dù lớn hay nhỏ trong cả nước bởi loài hoa này thường gắn với
rất nhiều phật tích. Đức Thế tôn sinh ra và bước đi lần đầu tiên trên 7 bông
hoa sen, Padmasambhava hay bồ tác Liên hoa sinh cũng sinh ra từ bông hoa sen,
rõ ràng hoa sen có ý nghĩa và vị trí rất quan trọng trong đạo phật. Trong trang
trí mỹ thuật, hoa sen thường được tạo tác làm bệ ngồi cho đức phật, chư phật
trong tư thế tọa thiền kiết già. Hoa sen cũng thường được trang trí trong các
bức tranh treo ở chính điện, nhà trai hay giảng đường. Trong những chi tiết kết
cấu của bộ khung sườn, hoa sen cũng thường được tạo tác khéo léo trên những bộ
vì kèo bằng gỗ với phương pháp chạm thủng mang đến những tác phẩm nghệ thuật
thật ý nghĩa. Những viên gạch mộc mạc tại sân chùa vốn yên ả, tĩnh lặng cũng
thường được in chìm hình hoa sen làm cho tha nhân, hành giả đến chùa cảm nhận
được sự yên ả, tĩnh lặng, vi diệu từ sâu thẳm trong tâm hồn khiến con người
thanh thản hơn, gạn đục khơi trong hơn để hướng tới cái chân lý uyên thâm, mầu
nhiệm của phật pháp.
Hoa mẫu đơn
cũng là một loài hoa thường được tạo tác trong các công trình kiến trúc mỹ
thuật, mẫu đơn là một loài hoa có nguồn gốc từ phương Bắc (Trung quốc) hoa có
nhiều cánh, sắc hồng hoặc đỏ, có kính thước khá lớn được cấu thành từ nhiều
cánh hoa. Hoa mẫu đơn có một vẻ đẹp sang trọng, viên mãn và quý phái. Ngoài vẻ
đẹp thẩm mỹ vốn có của mình, hoa mẫu đơn còn có nhiều dược tính phục vụ vào
việc chữa bệnh cho con người. Hoa mẫu đơn thường được trang trí trong các bao
lam, cửa võng hay tại các ban thờ bằng gỗ với phương pháp chạm thủng hoặc chìm
truyền thống tại các công trình kiến trúc như đình, chùa. Hoa mẫu đơn thể hiện
sự sang trọng, quý phái, vương giả. Bên cạnh đó, trong đời sống vợ chồng nó còn
thể hiện sự đầm ấm, hạnh phúc lứa đôi. Nói chung, việc tạo tác hoa mẫu đơn
trong các đồ án trang trí mỹ thuật tại các công trình kiến trúc có tính tôn
giáo-tín ngưỡng trước hết góp phần tạo nên vẻ đẹp trong lĩnh vực thẩm mỹ cũng
như làm tăng thêm sự trang nhã, sang trọng, giá trị cho toàn thể kiến trúc đồng
thời qua đó gửi gắm ước mong về sự hạnh phúc, viên mãn, an lành đầy đủ tới thế
giới tâm linh truyền thống của người Việt, đó là bản sắc văn hóa, là những gì
tinh hoa, thanh lịch của dòng chảy văn hóa Việt Nam trong sự giao lưu, chọn
lọc, tiếp thu với các nên văn hóa trong khu vực và trên thế giới.
Tại vùng Nam bộ trù phú, được thiên nhiên ưu đãi,
đất đai phù sa, tươi tốt, cây trái xum xuê trĩu quả, cuộc sống người dân sung
túc, an vui. Sự thể hiện các lọai cây trái như bầu, nho, lựu…… vào các họa tiết
trang trí mỹ thuật trong các công trình kiến trúc phần nào thể hiện cái triết lý
về sự đầy đủ, ấm no trong cuộc sống từ đó con người ta cảm thấy thoải mái hơn,
lạc quan hơn, đường đạo dường như cũng thênh thang rộng mở hơn. Ngoài ra các
loài hoa trái được tạo tác hết sức cầu kỳ với kỹ thuật chế tác tinh xảo góp
phần tạo nên vẻ đẹp thẩm mỹ trong các cấu kiện kiến trúc đình, chùa, lăng miếu.
Các môtip cây trái trên thường được tạo tác trong các bức bao lam, cửa võng hay
tại các mặt diềm của các ban thờ theo dạng dây lá, hoa trái. Đặc biệt trong các
trang trí dạng ô hộc tiêu biểu cho lối kiến trúc triều Nguyễn thì bên trong các
ô hộc này thường trang trí cây lá kết hợp với hoa trái thật cầu kỳ và tinh xảo.
Văn hóa Việt Nam từ rất sớm đã luôn hòa nhập, gần
gũi, thích ứng với thiên nhiên, phát triển trên nền tảng thiên nhiên nên sẽ
không có gì là khó hiểu khi trong các họa tiết trang trí truyền thống của người
Việt tại các công trình kiến trúc xuất hiện các biểu tượng có tính thiên nhiên
như : mây, nước, sóng, gió, tia chớp, mặt trời, mặt trăng, lưỡng nghi…….
Việt Nam vốn là một nước nông nghiệp lúa nước nên các yếu tố thiên nhiên luôn
chiếm một vị trí thật quan trọng, quyết định cuộc sống của cư dân nơi đây từ
thời tiền sơ sử. Trong các đồ án trang trí trên mặt trống đồng Đông Sơn hay
Ngọc Lũ, chúng ta thấy xuất hiện các họa tiết chèo thuyền, các mái nhà có mái
dạng thuyền, liên quan mật thiết tới môi trường sông nước. Truyền thống ấy được
lưu truyền, gìn giữ trong suốt dòng chảy của lịch sử và luôn được khéo léo tạo
tác, thể hiện trong các tác phẩm nghệ thuật trang trí tại đình, chùa, lăng tẩm.
Việc tạo tác các đồ án trang trí này mang lại những giá trị mỹ thuật to lớn góp
phần làm phong phú thêm cho kho tàng nghệ thuật kiến trúc của Việt Nam. Các
hiện tượng thiên nhiên trong cuộc sống con người đã được quan sát và khéo léo thể
hiện trong các biểu tượng, thể hiện tính lưỡng nguyên, tuần hoàn của thiên
nhiên, vũ trụ, trong đó tiêu biểu là biểu tượng « lưỡng nghi » .
Lưỡng nghi là khởi nguyên của vạn vật, được miêu tả là một vòng tròn có hình
chữ S ở giữa chia đôi hình tròn thành hai phần, mang tính chất đối lập nhau.
Trong mỗi phần đối lập ấy lại có một chấm nhỏ thể hiện tính chất của phần đối
lập kia. Hình tượng lưỡng nghi từ lâu đã có ý nghĩa triết học sâu sắc, lưỡng
nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vô lượng. Từ đấy có
thể thấy rằng lưỡng nghi là nguồn cội, là khởi phát cho mọi hoạt động sinh sống
và phát triển của vạn vật trên trái đất này.
Lưỡng nghi phù hợp với lối tư duy lưỡng nguyên của
người Việt, mọi sự vật trong vũ trụ đều có âm, có dương, động thực vật có giống
đực, giống cái, con người thì có nam, nữ. Khi âm dương giao hòa, cân bằng thì
vạn vật nảy sinh, phát triển mặt khác khi âm dương bị mất cân bằng thì sẽ gây
nên sự xáo trộn, diệt vong. Tư duy ấy quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng phồn thực
của người Việt, tín ngưỡng phồn thực ấy đã được khéo léo thể hiện trong các họa
tiết trang trí mỹ thuật hay tổng thể kiến trúc trong các công trình tín
ngưỡng-tôn giáo truyền thống của dân tộc.
Trong các công trình
kiến trúc cổ tại Việt Nam nói chung và khu vực tp.HCM nói riêng thì tín ngưỡng
dân gian luôn được khéo léo lồng ghép và thể hiện rất tài tình trong từng chi
tiết, đường nét, cấu kiện. Một trong những tín ngưỡng dân gian nổi bật nhất của
nền văn minh nông nghiệp lúa nước đó là tín ngưỡng phồn thực. Với lối tư duy
lưỡng nguyên, phân tách rạch ròi giữa âm và dương giữa đực và cái của cư dân
nông nghiệp với ước mong có sự giao hòa, sinh sôi và phát triển như đã trình
bày ở trên, nên sẽ không lấy gì làm khó hiểu nếu chúng ta bắt gặp hình ảnh điêu
khắc các cặp đôi nam nữ trong những tư thế chọc ghẹo nhau được thể hiện sinh
động trong các ngôi đình cổ mà đặc biệt là ở khu vực Bắc bộ. Ở Nam bộ, lối tư
duy lưỡng nguyên trên dường như cũng vẫn được duy trì trong từng đường nét, kết
cấu vật chất của những ngôi đình, chùa, lăng miếu tại đây mà cụ thể là một số
chi tiết như : Hình tượng ông nhật, bà nguyệt trên nóc mái điện tại những
lăng mộ hay những ngôi đình tại tp.HCM phải chăng cũng liên quan đến lối tư duy
lưỡng nguyên biểu thị cho âm, dương như đã nói ở trên. Hình ảnh ông Nhật bà
Nguyệt cũng là những yếu tố văn hóa hình thành trong quá trình giao lưu với văn
hóa Hán ở phương Bắc. Xét ở khía cạnh kết cấu, toàn bộ hệ thống cột của các
công trình kiến trúc cổ phần lớn đều được đặt trên những tán đá vuông hoặc
tròn, điều đó phần nào khiến chúng ta liên tưởng đến hình tượng Yoni-Linga
(tượng trưng cho thần Shiva) của văn hóa Ấn Độ cũng mang ý nghĩa thể hiện sự
giao hòa âm dương. Hình ảnh trên phải chăng là tượng trưng cho sự vận hành của
vũ trụ ? Tuy nhiên đây mới chỉ là ý kiến cá nhân của người viết có tính chất
gợi mở, đoán định.
Các biều tượng như đã
nói vốn là sản phẩm đỉnh cao của tư duy trừu tượng, nó mang trong mình những
triết lý tôn giáo, nhân sinh sâu sắc đặc biệt là trong Phật giáo, các tư thế
bắt ấn trong mỗi bức tượng ẩn chứa rất nhiều các ý nghĩa trừu tượng, thâm sâu
và bên cạnh đó còn ẩn chứa một sức mạnh vô hình của chư thiên, vũ trụ trong
niền tin tôn giáo này. Các tư thế bắt ấn thực chất là sự phối kết hợp về hình
dáng giữa các ngón tay của bàn tay và giữa hai bàn tay với nhau trong sự tương
quan với những tư thế nhất định của cơ thể.
Mỗi tư thế bắt ấn thể
hiện những ý nghĩa và tác dụng khác nhau chẳng hạn như “Thí nguyện ấn” thể hiện
cho sự nhân từ, bố thí của đạo phật. Vô úy ấn với bàn tay phải mở rộng và lòng
bàn tay hướng ra bên ngoài, các ngón tay duỗi thẳng và để ngang vai biểu trưng
cho sự không lo sợ bởi một niềm tin vững chắc vào đạo phật. Định ấn với hai
chân khoanh lại, chân phải đặt trên đùi trái, chân trái cũng tương tự đặt lên
đùi phải, hai bàn chân ngửa lên, hai bàn tay lồng vào nhau sao cho hai ngón tay
cái chạm nhau. Định ấn thể hiện sự tập trung của người tu tập nhằm hướng đến
con đường giác ngộ .
Chuyển pháp luân ấn
cũng là một thế ấn quan trọng, thế ấn này với bàn tay phải đặt ngang ngực,
hướng lòng bàn tay ra ngoài, ngón trỏ và ngón cái tạo hình vòng tròn, bàn tay
trái tiếp xúc với bàn tay phải tại vị trí ngón cái của bàn tay phải, lòng bàn
tay trái hướng vào phía ngực. Đây là thế ấn có tính chất lịch sử, ghi lại
truyền thuyết lần thuyết pháp đầu tiên của đức Phật .
Các thế bắt ấn, tướng
tọa, đi, nằm của các vị Phật thể hiện nội dung triết lý thâm sâu cũng như những
hảo tướng thần kỳ của bậc thánh thật không dễ gì hiểu trọn và diễn tả hết được,
trong bài viết nhỏ này, người viết chưa có đủ điều kiện tiếp xúc, gặp gỡ những
cao tăng trí tuệ để lĩnh hội, chuyển hóa, thấu hiểu những kiến thức vi diệu ấy !
Đây cũng là một thiếu sót lớn mà chắc chắn rằng tác giả sẽ phải bổ sung trong
một bài viết khác có tính chất chuyên khảo hơn, rất mong quý độc giả cảm thông
cho tài hèn, lực mọn này mà rộng lòng lượng thứ.
Tóm lại, những họa
tiết, hoa văn, biểu tượng trang trí trong các công trình kiến trúc cổ của người
Việt tại tp.hcm được thể hiện một cách khéo léo trong dòng chảy của nền mỹ
thuật kiến trúc Việt Nam, trong đó có tiếp thu, giao lưu mang tính chọn lọc với
mỹ thuật của các nền văn hóa khác trong khu vực và trên thế giới tạo nên nét
đẹp thẩm mỹ thật đặc sắc mà ẩn chứa trong nó là những gì tinh hoa, chắt lọc,
thâm sâu mà các thế hệ tiền nhân đi trước đã dầy công tạo dựng, gửi gấm cho hậu
thế muôn đời.