Đồng
Nai vốn là một vùng đất phù sa cổ có từ lâu đời, cũng trên mảnh đất
này các nhà khảo cổ học trong các mùa điền dã đã tìm thấy một loạt
những dấu vết hoạt động của con người từ thời đại đá cũ. Văn hóa Đồng Nai là một
thuật ngữ khoa học được dùng để chỉ một giai đoạn phát triển của
thời đại kim khí ở Nam Bộ của Việt Nam mà cụ thể tập trung chủ yếu
vào khu vực miền Đông Nam Bộ hiện nay. Với văn hóa Đông Sơn ở phía
Bắc, văn hóa Sa Huỳnh ở khu vực duyên hải Trung Bộ và văn hóa Đồng
Nai ở khu vực Đông Nam Bộ đã hình thành nên ba trung tâm văn hóa lớn
trong thời đại kim khí ở nước ta. Văn hóa Đồng Nai là một giai đoạn
của thời kỳ kim khí phát triển
liên tục từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt, niên đại của
văn hóa Đồng Nai vào khoảng hơn 1000 năm trước công nguyên cho đến đầu
công nguyên, thời đại đồ sắt trong văn hóa Đồng Nai có niên đại vào
khoảng nửa sau thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên.
Văn
hóa Đồng Nai được phát hiện và nghiên cứu lần đầu tiên vào nửa sau
thế kỷ XIX bởi các nhà nghiên cứu nước ngoài mà chủ yếu là các
nhà khoa học người Pháp. Có thể dễ dàng điểm qua những tên tuổi khá
nổi tiếng của các học giả nước ngoài gắn liền với việc nghiên cứu văn
hóa Đồng Nai như : F.Caspar, A.Core, O.Grossin, L.Malleret, E.Saurin,
H.Fontain ..v…v.. trong giai đoạn khởi đầu này, với những trang thiết bị, công
cụ còn khá lạc hậu và số lượng nhà khoa học còn hạn chế tuy nhiên những học giả
ngoại quốc này với niềm đam mê, nhiệt huyết đã vẽ nên những đường nét cơ bản
của văn hóa Đồng Nai và phần nào cũng đã nghiên cứu được một số di tích quan
trọng. Sau ngày đất nước thống nhất 30/04/1975
các nhà nghiên cứu khảo cổ học Việt Nam đã có những điều kiện nhất định
để thực hiện nhiều hơn các cuộc khai quật khảo cổ và chính họ đã đưa
lên mặt đất hàng vạn hiện vật cũng như giải mã những bí ẩn liên quan đến
chúng góp phần làm sáng tỏ hơn nền văn hóa thời đại kim khí này. Có
thể phân chia các di tích khảo cổ thuộc văn hóa Đồng Nai theo 3 phức
hệ địa lý – văn hóa cổ như sau :
·
Khu vực nằm ở
độ cao 100è200 m so với mặt nước biển như các di tích : Cầu Sắt , Hàng
Gòn , Đồi Phòng Không …v..v…
· Khu vực hạ lưu
sông Đồng Nai với các di tích : Dốc Chùa , Bình Đa , Phước Tân , Gò Me
và một số di tích phân bố ở Long An như : An Sơn , Rạch Núi
· Khu vực đồng
bằng ven biển như : Giồng Phệt , Giồng Cá Vồ , Cái Vạn , Cái Lăng ,
Bưng Bạc , Bưng Thơm , Rạch Giừng , Lộc Giang
Thời đại đồ sắt trong văn hóa
Đồng Nai có niên đại vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ thứ I trước công
nguyên, đó là một bước phát triển liên tục từ thời đại đồ đồng
trước đó theo nhiều nhà nghiên cứu thì văn hóa Đồng Nai là cơ sở, là
nguồn cội có tính bản địa góp phần hình thành và phát triển nên văn hóa
Óc Eo nổi tiếng ở khu vực Nam Bộ Việt Nam, tuy nhiên vấn đề này đến
nay vẫn cần phải nghiên cứu ở một mức độ chuyên khảo với những cuộc
khai quật thực địa để góp phần chứng minh tính bản địa của nền văn
hóa Óc Eo này. Trong khuôn khổ của bài viết này, người viết xin trình
bày về những phát hiện mới trong thời đại đồ sắt thuộc văn hóa
Đồng Nai từ năm 2005 đến nay.
Bài viết này là sự tổng hợp lại một số tư liệu nhỏ, tản mác đã tìm
được trong quá trình tìm kiếm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu cho một
đề tài lớn hơn, song thiết nghĩ để củng cố lại một cách có hệ thống những phát
hiện mới về văn hóa Đồng nai nên người viết đã mạnh dạn tập hợp lại thành một
bài viết nhỏ không nằm ngoài mục đích cung cấp thêm những thông tin cho bạn đọc.
Từ năm 2005 đến nay đã có một số phát hiện mới về văn hóa Đồng Nai
trong thời đại đồ sắt như sau :
Đầu tiên có thể kể đến là
việc khai quật di tích Giồng Lớn (Long Sơn, Vũng Tàu) vào tháng 6/2005.
Di Tích Giồng Lớn thuộc địa bàn xã Long Sơn từ năm 2002 đến 2005 Sở
Văn Hóa Thông Tin (trực tiếp là bảo tàng tỉnh) đã phối hợp với Bảo
Tàng Lịch Sử Việt Nam tiến hành nhiều cuộc điều tra thám sát tại
đây. Những kết quả của quá trình thám sát đã cho thấy khu vực Giồng
Lớn ẩn chứa nhiều tiềm năng về khảo cổ học đặc biệt là trong thời
đại kim khí, có nhiều khả năng tương tự như khu di tích ven biển Cần
Giờ (Giồng Phệt, Giồng Cá Vồ) được khai quật năm 1993. Trên cơ sở đó
vào “Tháng 3-2003, được phép của Bộ
VHTT, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Bảo tàng Tổng hợp tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đã tiến hành khai quật di tích Giồng Lớn. Các nhà khảo cổ học đã mở
5 hố khai quật với tổng diện tích 350m2 nằm bên rìa giồng cát, giáp với khu
cánh đồng muối và khu sinh thái ngập mặn ven biển. Tại 5 hố khai quật, ở độ sâu
0,8 - 1,4m, các nhà khảo cổ học phát hiện được 54 mộ cổ với 1.636 hiện vật
là đồ tùy táng.”(1). Qua đợt khai quật này, với số lượng di vật khá
phong phú đã thu hút được sự quan tâm, chú ý của rất nhiều những nhà
nghiên cứu khảo cổ học trong cả nước. Tháng 6/2005 được sự cho phép của
Bộ Văn Hóa thông tin theo quyết định số 5536/QĐ-BVHTT Bảo Tàng Tỉnh Bà
Rịa-Vũng Tàu đã phối hợp với Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam để tiến
hành khảo sát và khai quật di tích Giồng Lớn lần thứ II do Tiến Sỹ
Vũ Quốc Hiền làm trưởng đoàn khai quật, quá trình khai quật kéo dài
trong khoảng thời gian hơn hai tháng, đoàn đã thám sát khai quật gầm 300
mét vuông đã phát hiện được 26 cụm mộ có hai loại hình mộ táng đó
là mộ nồi và mộ đất trong đó mộ đất chiếm ưu thế.
Các
hiện vật tìm được ở Giồng Lớn trong đợt khai quật lần II bao gồm các
mảnh gốm, đồ đá, đồ trang sức và một số đồng tiền Ngũ Thù thời Tây
Hán cho phép khẳng định niên đại của di tích này là vào khoảng trên
dưới 2000 năm cách ngày nay. Với một số lượng hiện vật lớn trong
tổng cộng hai đợt khai quật là “2310
hiện vật” (2). Di tích khảo cổ học Giồng Lớn là một di tích có
tầm quan trọng cần được quan tâm, nghiên cứu đầu tư cho quá trình hậu khai
quật góp phần phát thảo nên hình ảnh văn hóa Đồng nai trong giai đoạn đồ sắt
tại khu vực này. Di tích Giồng Lớn được các nhà nghiên cứu cho rằng là
một di tích mộ táng với một mật độ không dày đặc (Khoảng 7m2/mộ)
(1), nhưng đây là một di tích thuần mộ táng nếu như ở khu vực ven
biển Cần Giờ với các di tích tiêu biểu như : Giồng Phệt, Giồng Cá
Vồ được khai quật năm 1993 với sự xen lẫn giữa di tích cư trú và mộ
táng thì đến di tích Giồng Lớn (Long Sơn-Vũng Tàu) chúng ta đã thấy
có sự tiến bộ rõ rệt trong tư duy của người xưa khi đã tách biệt giữa
khu cư trú và mộ táng. Đồ gốm trong tìm được trong di tích Giồng Lớn
có nhiều điểm tương đồng với đồ gốm tìm được trong di tích Giồng
Phệt, Giồng Cá Vồ ở khu vực Cần Giờ (TP Hồ Chí Minh) điều đó cho
thấy có sự liên hệ mật thiết giữa những di tích này. Về mặt niên
đại di tích, Giồng Cá Vồ vào khoảng 2500 cách ngày nay còn di tích
Long Sơn vào khoảng trên dưới 2000 năm cách ngày này như vậy di tích
Long Sơn có niên đại muộn hơn di tích Giồng Cá Vồ và có khoảng thời
gian tồn tại trùng với thời gian hình thành nên nền văn hóa Óc Eo
nổi tiếng, như vậy di tích Giồng Lớn (Vũng Tàu) có một vị trí quan
trọng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu văn hóa Óc Eo.
Trong
sách : “Những Phát Hiện Mới Về Khảo Cổ Học Năm 2006” có đề cập đến
những hiện vật đã được chỉnh lý của di tích gò Cây Quéo (Gò Cát)
thuộc địa phận Quận 2 Tp. Hồ Chí Minh. Di tích gò cây Quéo còn có
tên gọi khác là Gò Cát, di tích này đã được Bảo Tàng Lịch Sử Việt
Nam phát hiện và đào thám sát từ năm 1990. Cuối năm 1992 di tích này
bị phá hủy nghiêm trọng, tòan bộ giồng cát bị đào để lấy cát xây
dựng làm xuất lộ các hiện vật khảo cổ sau đó các cán bộ thuộc
trung tâm khoa học xã hội và nhân văn TP.Hồ Chí Minh đã đến đây thu
thập hiện vật. Trong số những hiện vật khai quật được thì số lượng mảnh
gốm chiếm ưu thế nhất. Trong những năm vừa qua, hiện vật sưu tập được
tại gò Cây Gáo đã được sưu tầm và chỉnh lý lại mang đến cho chúng
ta nhiều hiểu biết mới về di tích này. Trong số những hiện vật tại
gò Cây Gáo đã được chỉnh lý thì “số
lượng mảnh gốm tìm thấy nhiều nhất tuy nhiên số lượng mảnh gốm tìm
thấy trong địa tầng không nhiều khoảng 300 mảnh”(3). Có hai loại
đồ gốm là đồ gốm thô và đồ gốm mịn. Gốm thô có xương gốm chứa bã
thực vật chiếm trên 60%, gốm mịn có xương gốm đỏ nâu pha cát và vỏ
nhuyễn thể giã nhỏ. Về mặt hoa văn : “Gốm
thô có tỷ lệ hoa văn thấp chỉ khoảng 11%, trong đó gốm mịn có tỷ lệ
hoa văn cao hơn nhiều đến 36,7% trong đó hoa văn phổ biến là văn chải
đan xéo nhau hoặc chạy dọc thân có hoặc không kết hợp những đường
miết láng , ngoài ra còn có văn chải khuôn nhạc, văn khắc vạch kết
hợp chấm dải xuất hiện khá ít, hoa văn trang trí chủ yếu là phần
thân còn phần miệng ít có trang trí hoa văn”(3). Ngoài các mảnh
gốm thu được còn có những bi gốm, chân đế gốm. Bi gốm tìm được có 3
loại : “Loại tròn đều có số lượng
584 viên chiếm 69.43% , loại bị méo có 131 viên chiếm 15,5% , loại bị
hư hỏng chiếm 126 viên . Bi gốm được làm chủ yếu bằng chất liệu là
đất sét pha nhiều cát . Đồ đá tìm được trong di tích theo thống kê
có 349 tiêu bản trong đó có 138 công cụ các loại chiếm 39,5% và 211
mảnh tước , mảnh công cụ hư hỏng ..v..v.. Chiếm 60,5%”(3). Việc phân
loại và chỉnh lý chi tiết các hiện vật tìm được cho chúng ta một
cái nhìn rõ nét hơn về di tích Gò Quéo
Năm 2007 các cán bộ khảo cổ học
lại tiếp tục khai quật di tích Gò Me (Ấp 2, Phường Thống Nhất, Thành
Phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai) theo giấy phép khai quật số 1717/QD-BVHTT
ngày 01 tháng 6 năm 2007 của Bộ VH-TT. Đợt khai quật này nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Tỉnh Đồng Nai,
cuộc khai quật là kết quả của sự phối hợp giữa Bảo Tàng Tỉnh Đồng
Nai, Sở Khoa Học Công Nghệ, Hội Khoa Học Lịch Sử Tỉnh Đồng Nai và
Viện Khoa Học Xã Hội Vùng Nam Bộ (Nay là Viện Phát Triển Bền Vững
Vùng Nam Bộ) cùng với trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn
TP.Hồ Chí Minh. Cuộc khai quật do Tiến Sỹ Phạm Quang Sơn làm trưởng
đoàn khai quật. Thời gian khai quật từ ngày 1/06/2007 đến ngày
1/07/2007 với diện tích khai quật là 100 mét vuông. Đoàn khai quật gồm
có Tiến Sỹ Phạm Quang Sơn, Tiến Sỹ Nguyễn Văn Long, cử nhân Lưu Văn Du,
cử nhân Nguyễn Thị Tuyết Trinh, cử nhân Lê Công Tâm, và các sinh viên
khoa Lịch Sử của trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn TP. Hồ
Chí Minh. Di tích Gò Me với tọa độ địa lý 10°56’57.4’’ vĩ Bắc ,
106°50’03.0’’ kinh Đông, di tích này được phát hiện từ năm 1981 bởi ông
Trần Hiếu Thu. Trong khoảng thời gian từ năm 1982 đến năm 1984 phòng
Bảo Tồn-Bảo Tàng Tỉnh Đồng Nai, Ban Khảo Cổ Học Viện Khoa Học Xã
Hội tại TP.Hồ Chí Minh đã tổ chức 3 đợt điều tra và đào 5 hố thám
sát mỗi hố có diện tích 2m2. Tầng văn hóa dao động từ 40cm
đến 85cm. Các hiện vật thu được trong quá trình điều tra bao gồm 55
tiêu bản bằng đá , có 5 rìu vai, 10 rìu hình thang, 11 mảnh vỡ của
công cụ, 2 mảnh vòng tay, 1 mảnh đàn đá . Hiện vật bằng gốm có 1
dọi se sợi, 4 bi gốm và trên 300 mảnh gốm thuộc 3 loại chất liệu màu
đen, đỏ và trắng. Theo các nhà nghiên cứu thì niên đại của di tích
Gò Me vào khoảng 3000 đến 2500 năm cách ngày nay, với niên đại này có
thể so sánh tương đương với di tích Dốc Chùa và Bình Đa ở Bình Dương.
Cuối năm 2006 đầu năm 2007 các nhà nghiên cứu lại tiếp tục đào hai hố
thám sát với diện tích mỗi hố là 4m2 (Trên phần đất thuộc quyền sở
hữu của ông Nguyễn Văn Thành, số nhà 49/4 tổ 5, Phường Thống Nhất)
trong hố thám sát thứ 2 đã ghi nhận dấu tích của tầng văn hóa .
Trở lại với kết quả khai quật
di tích Gò Me trong trong hai tháng 6 và 7 năm 2007 đoàn khai quật đã thu
được một khối lượng hiện vật phong phú, góp phần cho việc nghiên cứu
nền văn hóa cổ nơi đây. Trong đợt khai quật di tích Gò Me này chúng ta
đã thu được tất cả 354 hiện vật bao gồm các loại như : Bàn mài, đồ
trang sức, mảnh vỡ, các loại công cụ bằng đá, các loại mảnh gốm
ghè tròn và những viên bi bằng đất nung bên cạnh đó còn có hàng vạn
mảnh vỡ của các hiện vật gốm bằng đất nung. Về hiện vật đá trong
số 354 hiện vật được tìm thấy có 151 hiện vật bằng đá theo Báo Cáo
Khai Quật Di Tích Khảo Cổ Học Gò Me (TP. Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai năm
2007) thì tại hố H1 số hiện vật đá khai quật được bao gồm : “Công cụ rìu bôn (được gọi chung là
rìu) và mảnh vỡ : 14 hiện vật bao
gốm Rìu Vai : 1 hiện vật, rìu tứ giác 3 hiện (có số 14,15,48) đều có dạng hình thang
ngắn bị phong hóa màu trắng đục. Một chiếc số 48 còn nguyên vẹn thân
mỏng được mài kỹ , lưỡi vát hai bên gần cân đối. Hai chiếc còn lại
khá dày, lưỡi mài vát một bên có
lẽ được sử dụng như cuốc nhỏ. Phác vật rìu tứ giác : 1 hiện vật
(số 63) , Mảnh lưỡi : 1 hiện vật (số 17), Mảnh chuôi : 5 hiện vật (số
16,37,46,56,61). Mảnh vỡ công cụ không định dạng : 3 hiện vật (số
28,52,64) .Đục : 8 hiện vật(4,6,12,23,26,27,40,51) trong đó có 4 hiện
vật (12 , 23, 26 , 40) còn khá nguyên vẹn, có hình thon dài, được chế tác
bằng kỹ thuật ghè đẽo. Hai hiện vật số 6 và số 27 bị gãy ngang thân
chỉ còn lại phần lưỡi, thân và lưỡi được mài sắc . Hiện vật số 4
bị gãy mất phần lưỡi , thân được mài , mặt cắt hình chữ nhật gần
vuông . Hiện vật số 51 là một mảnh vỡ không định dạng. Công cụ mũi
nhọn có 2 hiện vật là hai hiện vật nhỏ , một đầu có mũi nhọn ,
mặt cắt ngang thân hình tam giác . Mảnh khuôn đúc : 6 tiêu bản (số
2,24,25,3839,68) , trong đó hai tiêu bản số 2 và 39 là mảnh vỡ của một
hiện vật làm bằng đá cát hạt thô hoặc mịn . Đá mài : 17 hiện vật
(10,11,13,19,35,42,43,44,45,57,58,59,60,65,66,67,69) bàn mài chủ yếu là
đá cát hạt mịn , có mặt mài lõm hình lòng máng , Chì lưới : 3
hiện vật (53,55,62), mảnh vòng : 1 hiện vật (Số 20) (4) . Tại hố
khai quật thứ 2 số hiện vật đá thu được là 100 hiện vật bao gồm :
Công cụ rìu, bôn và mảnh vỡ, 53 hiện vật trong đó rìu vai tìm được 1
hiện vật, rìu tứ giác tìm được 20 hiện vật, rìu thân ngắn tìm được
là 10 hiện vật, rìu thân dài tìm được 10 hiện vật, rìu tam giác tìm
được 1 hiện vật, Mảnh lưỡi công cụ tìm được 8 hiện vật, mảnh thân
tìm dược 4 hiện vật, mảnh chuôi 13 hiện vật, mảnh vỡ công cụ không
định dạng tìm được 6 hiện vật.
Tại
hố khai quật thứ 2 đã tìm được 6 cuốc đá, và 4 chiếc đục. Riêng chày
nghiền tìm được 2 hiện vật là một thanh cuội có hình dáng bầu dục
thon dài gần như hình trụ. Bàn dập hoa văn tìm được 5 hiện vật. Khuôn
đúc tìm được 1 hiện vật tuy nhiên vỡ chỉ còn một góc tư, hình khối
hộp dẹp chất liệu đá màu xám xanh phong hóa màu nâu nhạt. Đàn đá
tìm được 1 hiện vật có dạng hình thang đầu nhỏ gãy ba rìa được chế
tác bằng nhiều vết ghè tạo rìa mỏng, một mặt thân tương đối phẳng mặt
kia mài hình mai rùa. Vòng tay đá tìm được 9 hiện vật trong đó có 2
mảnh vỡ không định dạng được. Hiện vật bằng đất nung tìm thấy trong
đợt khai quật có số lượng khá lớn:
“203 Hiện vật gồm có bi
(thường gọi là bi gốm) , dọi se sợi làm bằng đất nung và những mảnh
đồ gốm vỡ được ghè tròn”(4) . Trong hố khai quật thứ 1 tìm được 17
hiện vật bao gồm 14 bi gốm, 2 gốm ghè tròn, chân đế hình ống 1 hiện
vật. Trong hố khai quật thứ 2 tìm được 186 hiện vật gốm bao gồm 158
bi gốm (bi gốm ở hố khai quật thứ 2 nhỏ hơn so với hố 1). Gốm ghè
tròn thu được 5 hiện vật, dọi se sợi thu được 23 hiện vật. Bên cạnh
đó, việc khai quật di tích Gò Me đã thu được hàng vạn mảnh gốm. “Trong đợt khai quật di tích Gò Me đã
thu được 112.059 mảnh vỡ của các loại đồ đựng bằng gốm tại hố khai
quật thứ 2 . Các mảnh gốm đã được chỉnh lý , thống kê và phân loại
theo chất liệu , loại hình và hoa văn” (4). Về mặt chất liệu thì
gốm ở di tích Gò Me được làm từ nguyên liệu đất sét pha trộn với
cát, vỏ nhuyễn thể nghiền nhỏ, bã thực vật cũng được sử dụng với
hàm lượng không nhiều. Gốm được nung ở nhiệt độ cao và không ổn định
nên có nhiều màu sắc khác nhau, các mảnh gốm với số lượng 91084
mảnh có hoa văn chiếm một tỉ lệ hơn 80 % các mảnh gốm thu được ở Gò
Me. Các hoa văn trên gốm ở Gò Me thường được tạo thành bởi các kỹ
thuật chải, in thừng, đập khắc vạch và miết bóng. Việc khai quật di
tích Gò Me trong hai tháng 6 và 7 năm 2007 đã mang đến những hiểu biết
sâu sắc và tổng thể hơn cho các nhà nghiên cứu. Các công cụ, hiện vật
tìm thấy ở đây cho thấy chúng thường xuyên được tái chế, làm thanh
xuân hóa, những dấu vết lỗ cột cho thấy cư dân nơi đây đã sống trong
những ngôi nhà được dựng bằng cây, tre, lá. Các công cụ đá tìm thấy
trong các di tích ở đây hoàn toàn mang phong cách của văn hóa Đồng Nai
, đồ gốm khai quật ở di tích cho thấy mối liên hệ với những di tích
Cái Lăng, Rạch Lá, Bình Đa , Bến Đò …v…v..
Năm
2009, tại tỉnh Bình Phước các nhà nghiên cứu đã tiến hành thám sát
quanh khu vực những di tích đã được phát hiện và nghiên cứu trước đó.
Tại đây cùng với 18 di tích đất đắp hình tròn đã được khai quật
nghiên cứu đến nay(2009) đã phát hiện thêm được 26 di tích tương tự,
đây là những khu di tích cư trú cổ
có diện tích từ 1,5 ha đến 10 ha có thành đất đắp bao quanh hình
tròn có đường kính từ 140m đến 360m cao từ 4m đến 5m, đoàn nghiên cứu
đã tiến hành khảo sát 3 trong số những di tích nói trên bao gồm :
v Di Tích Lộc Tấn 2 : là một di tích thuộc ấp
K57, Xã Lộc Tấn, Huyện Lộc Ninh di tích được phát hiện vào năm 1999
sau đó đã được đào thám sát 2 hố vào năm 2000. Trong đợt nghiên cứu
này, đoàn cong tác đã đào thám sát 1 hố và kiểm chứng lại 2 vách
tây bắc và đông nam của hố thám sát 1 vào năm 2000. Hố thám sát 2
(2008) có tọa độ 11°52’30,8’’ vĩ Bắc, 106°38’37,0’’ kinh Đông, có diện
tích 2m2 . Địa tầng trong hai hố thám sát có cấu tạo khá giống nhau.
Trong hố thám sát 1 ở giữa tầng văn hóa lớp 4 và lớp 5 các nhà
nghiên cứu đã phát hiện 2 lớp mỏng nện chặt, nhiều than tro và gốm
vụn nằm ngang có chiều dày từ 0,3cm đến 0,7cm
v Di Tích Lộc Điền: là một di tích thuộc dạng
thành đất tròn có hai cổng ra vào ở phía Đông và phía Tây, tại đây
các nhà nghiên cứu đã thu được khá nhiều hiện vật ngay trên bề mặt
di tích gồm 7 mảnh rìu có vai, 2 rìu hình thang, 6 rìu hình tan giác,
6 mảnh vỡ rìu tứ giác, 10 đục và mảnh vỡ, 6 hòn ghè, 57 đá mài, 66
mảnh vỡ công cụ, 14 mảnh đá màu xanh đen, các mảnh gốm cũng có chất
liệu tương tự như các mảnh gốm ở di tích Lộc Tấn 2
v Di Tích Lộc Thành 2: là một di tích đã được
đào thám sát vào năm 2000 với hai hố thám sát là 2m2 và 4m2, trong
đợt khảo sát này các nhà nghiên cứu đã thu được 6 mảnh vỡ công cụ
và một số mảnh gốm chủ yếu là gốm nâu ít gốm xương đen
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
2
Hà Thị Kim Chi , Trần Thị Tú Uyên , Lê Nguyên Anh
(2006) . “Hiện Vật Di Tích Gò Quéo
(Gò Cát) Quận 2 TP.Hồ Chí Minh”
trong Những Phát Hiện Mới Về
Khảo Cổ Học năm 2006 NXB Khoa Học Xã Hội Hà Nội , Trang 237-240
3
Viện Phát Triển Bền Vững Vùng Nam Bộ , Báo
Cáo Khai Quật Di Tích Khảo Cổ Học Gò Me (TP.Biên Hòa Tỉnh Đồng Nai
Năm 2007) , Thành Phố Hồ Chí Minh 2008
4
Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam , Viện Khảo Cổ Học (2009) .
Những Phát Hiện Mới Về Khảo Cổ Học Năm 2009 . NXB Khoa Học Xã Hội
Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét