Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2014

Khả Năng Tồn Tại Đền Thờ Thần Mặt Trời Trong Văn Hóa Óc Eo

                                                            Lời Tựa
    

Thần mặt trời là một vị thần quan trọng bậc nhất trong các vị thần trên thượng giới và được tôn thờ ở nhiều nơi, trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, chính vì vậy chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tầm quan trọng của mặt trời trong tất cả mọi hoạt động sống của con người cũng như các sinh vật trên trái đất.Tín ngưỡng thờ cúng thần mặt trời có lẽ đã tồn tại từ buổi bình minh rất sớm trong lịch sử loài người. Hiện nay trong tất cả các nền văn minh lớn của nhân loại mà loài người biết đến thì dấu vết các đền thờ mặt trời được phát hiện, ghi nhận là rất nhiều mà cụ thể như: văn minh Hy Lạp-La Mã, văn minh Ai Cập cổ đại, văn minh Ấn Độ đều có sự xuất hiện của đền thờ thần mặt trời, điều đó cho thấy trong lịch sử cổ đại và đến tận ngày nay vai trò của thần mặt trời vẫn luôn được các dân tộc trên thế giới tôn sùng.

Trở lại với vấn đề chính của bài viết này đó là : “đền thờ thần mặt trời trên thế giới và trong văn hóa óc eo”. Như đã trình bày ở trên có lẽ mỗi người chúng ta không còn xa lạ gì với những đền thờ thần mặt trời to lớn được tạo tác cầu kỳ, tỉ mỷ trên thế giới, tuy nhiên khi chúng ta nói tới đền thờ thần mặt trời trong văn hóa Óc Eo có thể sẽ khiến người nghe hơi ngỡ ngàng, thoáng chút băn khoăn, nghi hoặc hay những ý kiến phản bác trái chiều gay gắt bởi lẽ từ trước tới nay khi nhắc đến văn hóa Óc Eo người ta thường nghĩ tới những mảnh gốm Óc Eo, những mảnh cà ràng, những mảnh vàng có khắc chữ cổ Sankrit hay những cặp Linga-Youni đặc trưng ảnh hưởng từ văn hóa Ấn Độ, tuy nhiên đền thờ thần mặt trời trong văn hóa Óc Eo thì quả thật là mới lạ, chứa đựng không ít những điều mới mẻ mà trước đến nay ít được nhắc tới. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu tìm ra những manh mối, những bằng chứng manh nha để dưới một góc độ khoa học nhất định có thể từng bước đưa ra những giả thiết tin rằng đã từng có sự tồn tại của đền thờ thần mặt trời trong văn hóa Óc Eo nổi tiếng. Bài viết nhỏ này dựa trên các tư liệu đã từng công bố và ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ học, song với trình độ cá nhân còn nhiều hạn chế, thiếu sót của mình đứng trước một vấn đề lớn với nhiều khía cạnh, chứng cứ còn ẩn tàng khuất nẻo, người viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định về mặt nhận thức và tư liệu song tôi cũng vẫn cứ mạnh dạn thẳng thắn trình bày những suy nghĩ có phần gợi mở của mình, rất mong các độc giả có kiến thức hay những ý tưởng, suy nghĩ khác đóng góp thêm những chính kiến của mình bổ sung thêm những khiếm khuyết của tác giả .

                                     
                                           


                                                Bố Cục Bài Viết

I/ Gới Thiệu Khái Quát Về Thần Mặt Trời
II/ Một Số Đền Thờ Thần Mặt Trời Trên Thế Giới
III/Những Khả Năng Về Sự Tồn Tại Đền Thờ Thần Mặt Trời Trong Văn Hóa Óc Eo
     3.1 / Giới Thiệu Khái Quát Về Văn Hóa Óc Eo
     3.2/  Một Số Kiến Trúc Tôn Giáo Trong Văn Hóa Óc Eo
     3.3/  Khả Năng Tồn Tại Đền Thờ Thần Mặt Trời Trong Văn Hóa Óc Eo 







                          I/ Giới Thiệu Khái Quát Về Thần Mặt Trời

         Từ thời lịch sử xa xưa, trong vũ trụ bao la và rộng lớn này con người đã sớm nhận thức được vai trò của thần mặt trời đối với cuộc sống của chính mình, tại buổi bình minh của lịch sử ấy, con người thật bé nhỏ, yếu ớt trước thiên nhiên, muôn thú do vậy con người cần sự che chở, bảo vệ. Người ta đã cư trú trong những hang núi trên cao khuất gió gần những nguồn nước tự nhiên cửa hang thường quay về phía đông để lấy ánh sáng mặt trời, con người thích ánh sáng, sợ bóng tối, mặt trời mang đến nguồn ánh sáng lớn lao và vĩ đại ấy, sưởi ấm con người, giúp con người vượt qua nỗi sợ hãi trong màn đêm tối tăm của thời tiền sử, như thế tầm quan trọng của mặt trời đã được con người nhận thức ngay trong thực tiễn của cuộc sống, và do đó   trong lịch sử mỗi một dân tộc, một quốc gia khác nhau đều có những tên gọi và những phương cách thờ cúng thần mặt trời khác nhau chẳng hạn như trong nền văn minh Ai Cập cổ đại thì thần mặt trời được gọi với cái tên là Thần Ra. Buổi sáng, thần là con bọ hung đẩy đĩa mặt trời lên, còn buổi trưa là con chim ưng đội đĩa mặt trời và buổi tối là con cừu lăn đĩa mặt trời xuống núi. Trong nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại thì cư dân tại đây gọi thần Mặt Trời của mình với một tên gọi là thần Anu. Thần Anu được quan niệm là cha đồng thời cũng là vua của các thần. Thần Anu có có một người con là thần nước Ea. Trong nền văn minh Hy Lạp rực rỡ mà chúng ta ngày nay còn được biết đến thông qua những công trình kiến trúc, điêu khắc có giá trị lịch sử, mỹ thuật to lớn còn tồn tại trường tồn cùng thời gian và đặc biệt là qua hai bộ sử thi Iliad và Odixe của nhà thơ mù Homer thì thần mặt trời trong lịch sử văn minh Hy Lạp chính là thần Appolo biểu tượng của ánh sáng, thần thường cầm đàn và cầm cung tên tương truyền mũi tên của thần mặt trời Appolo có thể bay xa vạn dặm, thần mặt trời Appolo của Hy Lạp cũng thường được thể hiện là một chàng thanh niên khỏe mạnh, tóc vàng, cơ thể săn chắc, cân đối. Còn đối với phương Đông huyền bí thì vị trí của thần Mặt Trời cũng hết sức quan trọng, điều đó dễ ràng nhận thấy bởi trong nền văn minh Ấn Độ cổ đại thì thần mặt trời chính là thần Suarya . Thần Mặt Trời Suarya là nguồn sáng của vũ trụ, là nguồn minh trí của tất cả các sinh vật biểu thị bởi mười hai nguyên lý tối cao (Aditya), là cửa mở vào con đường dẫn dắt con người tới thần linh, là nguyên nhân và cứu cánh của tất cả những gì hiện hữu trong quá khứ, hiện tại và vị lai, tất cả những gì sinh động và bất động. Về hình tượng, Suârya là một vị thần mình màu đồng đỏ, tóc và râu màu vàng, ngự trên một chiếc xe một bánh do bảy ngựa kéo, đôi khi do rắn (Naga) kéo. Thần Suârya đội vương miện và đeo vòng, tất cả đều toả hào quang chói lọi khắp mọi phương trời. Còn đối với người dân Trung Quốc thì Mặt Trời là một yếu tố quan trọng đối với nông nghiệp cũng như thần quyền bởi lẽ mỗi vị vua trong lịch sử Trung Quốc thường được gọi là Thiên Tử (con trời). Đàn tế trời được xây dựng một cách rất quy mô và tráng lệ , qua đó chúng ta thấy được tầm quan trọng của thần mặt trời đối với đời sống của cư dân trong lịch sử. Cũng chính vì tôn sùng sức mạnh của tự nhiên, phụ thuộc vào tự nhiên mà con người trở nên sùng kính và nể sợ tự nhiên. Cũng cần phải nói thêm rằng trong số các vị thần được tôn thờ thì lẽ dĩ nhiên thần Mặt Trời có một vị trí vô cùng quan trọng bởi lẽ Mặt Trời duy trì mọi hoạt động sống của tất cả mọi sinh vật trên trái đất. Điều đó khiến chúng ta hoàn toàn không có gì ngạc nhiên khi trong tất cả những dấu tích của các công trình kiến trúc tôn giáo mà nhân loại còn lưu giữ được đến tận ngày nay thì đền thờ thần Mặt Trời có lẽ xuất hiện khá nhiều và dường như ở khắp mọi nơi trên thế giới.

 Sự phong phú, đa dạng của các công trình kiến trúc đền thờ liên quan đến thần mặt trời cho thấy tín ngưỡng thờ thần Mặt Trời đã phổ biến ở hầu như tất cả mọi nơi và mọi dân tộc trên thế giới. Đặc biệt là các dân tộc có nguồn gốc nông nghiệp thì vị trí của thần Mặt Trời là vô cùng quan trọng. Ở Việt Nam, Chúng ta có thể dễ dàng thấy rằng hình ảnh của mặt trời với những tia sáng phát ra đã được thể hiện một cách rất khéo léo, hoàn hảo và cực kỳ nghệ thuật trên những chiếc trống đồng Đông Sơn ở khu vực Bắc Bộ, Bắc trung bộ Việt Nam cũng như khu vực Nam Trung Hoa và điều đặc biệt là những chiếc trống đồng này là những vật gắn liền với những tù trưởng hoặc những người có quyền lực. Như thế Mặt Trời được các dân tộc trên thế giới coi như ngọn nguồn của sự sống và sáng tạo, chính vì thế trong suốt dòng chảy lịch sử của mình, con người ngày càng sùng bái và đã không tiếc công sức xây dựng những công trình kiến trúc nhằm mục đích phục vụ cho việc thờ cúng thần Mặt Trời mà lịch sử vẫn may mắn còn lưu giữ lại cho con người chiêm ngưỡng, nghiên cứu, tìm tòi bằng những công trình thật sự hoặc những sử liệu có giá trị mà loài người chúng ta có được cho tới thời điểm này !

II/ Một Số Đền Thờ Thần Mặt Trời Trên Thế Giới

       Con người chúng ta trong thời đại nguyên thủy phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố tự nhiên như: Nắng, Mưa, Sấm, Chớp ...v..v…… Chính vì thế, thật tự nhiên con người đã trở nên sùng bái thiên nhiên và các hoạt động tôn giáo của con người có lẽ cũng được bắt đầu khi con người cảm thấy quá nhỏ bé trước vũ trụ bao la, đầy bí ẩn và do đó con người cần được một thế lực siêu nhiên nào đó giúp đỡ, che chở cho cuộc sống còn nhiều bấp bênh của họ. Trong bối cảnh ấy, những hình thức tôn giáo được manh nha, khởi nguồn và dễ dàng chiếm một vị trí quan trọng chi phối hầu hết cuộc sống của con người. Tôn Giáo đã ra đời từ rất lâu (mà cụ thể theo các nhà Khảo Cổ Học thì vào khoảng 45.000 năm trước với những hình thức tín ngưỡng sơ khai như thờ vật tổ “Totem giáo” ) [1]. Càng lệ thuộc, chịu sự chi phối của các hình thức tôn giáo bao nhiêu thì con người lại càng khéo léo thể hiện sự tôn kính của mình tới các vị thần qua các công trình kiến trúc thờ tự bấy nhiêu.

Như đã trình bày ở trên, thần Mặt Trời có một vị trí vô cùng quan trọng không thể thiếu vắng trong mọi nền văn hóa cũng như tất cả các hoạt động sống, sinh hoạt của loài người và các loài động thực vật khác trên thế giới. Như thế, một lẽ dĩ nhiên và dễ hiểu là các đền thờ thần mặt trời sẽ được xây dựng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Mỗi quốc gia, khu vực có một phong cách kiến trúc xây dựng riêng tạo nên những kiến trúc đền đài thờ phụng vô cùng độc đáo để tôn vinh, thể hiện sự quy phục của con người đối với thần mặt trời đầy quyền năng đang ngự trị và tỏa sáng . Chúng ta có thể điểm qua một vài công trình kiến trúc đền thờ thần mặt trời tiêu biểu trên thế giới như :

         Stonehenge là một công trình tượng đài cự thạch thời kỳ đồ đá mớithời kỳ đồ đồng gần AmesburyAnh, thuộc hạt Wiltshire, 13 km về phía bắc Salisbury. Tọa độ địa lý 51°10′44,85″N, 1°49′35,13″W [1]. Công trình này bao gồm các công sự bằng đất bao quanh một vòng đá, là một trong những địa điểm tiền sử nổi tiếng thế giới. Các nhà khảo cổ cho rằng các cột đá này được dựng lên từ khoảng 2500-2000 trước Công nguyên dù các vòng đất xung quanh được xây dựng sớm hơn, khoảng 3100 năm trước Công nguyên.[2] Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây thì Stonehenge là một mộ táng (táng thức trong các ngôi mộ đá khổng lồ thường được gọi là cự thạch) tuy nhiên một số ý kiến khác cho rằng đây là một đài quan sát thiên văn. Tuy nhiên một giả thiết mới về công dụng của Stonehenge ở Anh đó chính là một đền thờ thần Mặt Trời. Phát hiện này làm các nhà nghiên cứu khá bất ngờ và lý thú, nhận định này được các nhà khảo cổ học bằng những phương pháp kỹ thuật hiện đại như việc sử dụng máy quan sát radar từ trên không, nhóm các nhà nghiên cứu thuộc đại học Birmingham, trung tâm công nghệ không gian, Viện Khảo cổ học Ludwig Boltzmann và Viện Khảo cổ học ở Vienna, phát hiện ra 2 hố lớn ở vị trí hàng rào đá của công trình Stonehenge. Hai hố này rộng hơn 16 feet (hơn 4 mét), sâu 3 feet (gần 1 mét), nằm ở phía bắc Stonehenge, dựng trước tượng đài thời tiền sử đến 500 năm [3]. “Đây là lần đầu phát hiện ra điều này. Khi nhìn từ hòn đà bí ẩn Heel Stone đứng ngay ngoài lối vào Stonehenge, những cái hố giống như dấu hiệu của việc chào đón Mặt trời mọc lên vào giữ trưa hè”[4] .

Như vậy chúng ta thấy rằng ngay từ khi con người còn đứng trước ngưỡng cửa của thời đại văn minh thì phong tục thời thần Mặt Trời đã xuất hiện và đã khá phổ biến. Một đền thờ thần Mặt Trời lớn như Stonehenghe thì cần phải huy động một số lượng khá lớn nhân công hoạt động dưới sự chỉ huy nhất định, như thế chúng ta có thể thấy rằng để xây dựng nên một Stonehenghe vĩ đại cần phải có một sự đồng thuận lớn, hay nói khác hơn là sự tổ chức xã hội, sự nhất trí trong đông đảo quần chúng. Trong lịch sử Hy Lạp cổ đại, thần Appolo là thần ánh sáng và nghệ thuật, về sau thần Appolo thường được đồng nhất là thần mặt trời. Một trong những ngôi đền thờ của thần Appolo nổi tiếng lịch sử đó là đền thờ thần Appolo ở Bassae. Ngôi được xây dựng vào khoảng giữa thế kỷ thứ V trước Công nguyên. Tuy vị trí của ngôi đền này nằm cách xa các thành phố quan trọng của Hy Lạp cổ đại nhưng nó lại được nghiên cứu nhiều nhất vì những đặc điểm kiến trúc khác thường của mình. Tọa lạc tại miền núi xa xôi ở Peloponnese, đền thờ Apollo Epicurius ở Bassae là một trong những điện thờ cổ đại có quy mô rộng lớn và được bảo tồn khá tốt, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.

Ngôi đền nằm trên một ngọn núi cao với chiều cao so với mặt nước biển lên đến 1.131m, được bao quanh bởi rất nhiều khe suối hẹp và cách thị trấn Andritsaina 14,5km. Điện thờ thần Mặt Trời ở Bassae mang đến cho người xem những điều lý thú về sự kết hợp kiến trúc giữa cả ba loại cột cổ điển trong nền văn minh Hy-La đó là các loại cột Doric, Ionic và Corinth, những mẫu cột thuộc phong cách kiến trúc Corinth là những mẫu cột kiến trúc cổ xưa nhất. Vật liệu xây dựng ngôi đền chủ yếu là đá ong xám. Ngôi đền đứng trên một vị trí khá cao đón nhận những luồng gió lạnh quanh năm nên đền thờ thần mặt trời ở Bassae mang một vẻ đẹp u buồn, lạnh lẽo và cô tịch. Bên ngoài của đền thờ Appolo được bao quanh bởi những chiếc cột mang phong cách Doric chạy dọc theo chiều dài ngôi đền, những chiếc cột này còn tồn tại đến tận ngày nay giúp cho chúng ta có thể phần nào hình dung về tổng thể công trình. Không chỉ có phương Tây mà ngay ở khu vực phương Đông huyền bí, thần mặt trời cũng  được cư dân của những đại trường giang vùng sông nước này tôn thờ ở một vị trí rất cao. Điều đấy thật dễ hiểu bởi lẽ trong các nền văn minh nông nghiệp như đã trình bày ở trên thì vị trí của thần mặt trời là vô cùng quan trọng điều ấy dễ dàng giải thích hàng loạt những đền thờ thần mặt trời được xây dựng một cách to lớn, tráng lệ tại các quốc gia này.

Trong nền văn minh Ấn Độ cổ đại thì thần mặt trời chính là thần Surya. Theo thần thoại của Ấn Độ thì thần Surya chủ trì về ánh sáng là minh trí của tất cả các sinh vật biểu thị bằng 12 nguyên lý tối cao và là nguyên nhân cũng như cứu cánh của tất cả những gì xuất hiện trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Về hình tượng, thần Suârya là một vị thần mình màu đồng đỏ, tóc và râu màu vàng, ngự trên một chiếc xe một bánh do bảy ngựa kéo, đôi khi do Rồng (Naga) kéo. Suârya đội vương miện và đeo vòng, tất cả đều tỏa hào quang chói lọi khắp mọi phương trời, hình tượng chiếc bánh xe to lớn tượng trưng cho bánh xe Mặt Trời có lẽ là một điểm không thể thiếu trong nghệ thuật tạo tác khi thể hiện thần Surya. Một ngôi đền thờ thần Surya rất nổi tiếng ngay tại quê hương Ấn Độ mà chúng ta có thể kể đến đó là đền thờ thần Mặt Trời Konark ở Orissa ngôi đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 13 TCN, tại Konark, ở Orissa, Ấn Độ. Nó được vua Narasimhadeva (1236-1264 CE)  xây dựng từ đá sa thạch ôxy hóa và pha chất sắt. Ngôi đền này là một trong những ngôi đền nổi tiếng nhất ở Ấn Độ và là một trong 7 kỳ quan của đất nước này. Năm 1984 ngôi đền thờ thần Mặt Trời trên đã chính thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đồng thời đây cũng là một trong 7 kỳ quan của đất nước Ấn Độ. Không chỉ có ở Ấn Độ mà ngay tại quốc gia láng giềng với nước này là Trung Quốc đền thờ thần Mặt Trời cũng được xây dựng với một quy mô to lớn, đó là Thiên Đàn ở Bắc Kinh. Đây chính là nơi các ông Vua của Trung Hoa đến tế lễ vào các dịp quan trọng cầu cho mùa màng, đất nước, nhân dân được thái hòa, no ấm. Cấu trúc của Thiên đàn bao gồm hai hình đó là hình vuông bên ngoài và hình tròn ở bên trong đó là biểu tượng của trời và đất. Thật ra quy luật vuông tròn này chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ngay trong các lăng mộ của các các vị Vua triều đại nhà Minh (Trung Quốc) đó là những kiến trúc Bảo Thành, Minh Sơn vuông và tròn cũng như để tượng trưng cho trời và đất, cho âm và dương.  

              III/ Những Khả Năng Về Sự Tồn Tại Đền Thờ Thần Mặt Trời Trong Văn Hóa Óc Eo

       3.1 / Giới Thiệu Khái Quát Về Văn Hóa Óc Eo

          Văn Hóa Óc Eo là một nền văn hóa cổ ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long của Nam Bộ Việt Nam ngày nay. Nền văn hóa này được phát hiện đầu tiên vào khoảng những năm 1920 nhờ vào phương pháp không ảnh (chụp ảnh từ trên cao) của nhà khảo cổ học người pháp tên là Louis Malleret. Văn hóa Óc Eo cũng chính thức được khai quật vào năm 1944 cũng do Louis Malleret thực hiện. Nền văn hóa Óc Eo này thường được gắn liền với vương quốc cổ Phù Nam mà kinh đô của nó là ở Angko Borei, vương quốc cổ Phù Nam đã từng được nhắc tới rất nhiều trong các thư tịch cổ của Trung Quốc mà tiêu biểu là Lương Thư. Theo như các nhà nghiên cứu nhận định thì Óc Eo vốn là một cảng thị trên con đường buôn bán quốc tế, Cảng thị này cũng đã từng có một thời sầm uất trên bến dưới thuyền đóng một vai trò là một trạm dừng chân quan trọng trong những hải trình buôn bán quốc tế đương thời. Tuy nhiên từ thế kỷ thứ VII trở đi do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau (trong đó yếu tố tự nhiên có một vai trò quan trọng) đã dần làm cho cảng thị Óc Eo mất dần tầm quan trọng của mình để rồi sau đó nó đã tạo tiền đề cho sự lụi tàn của nền văn hóa nổi tiếng này . Trước năm 1975 việc nghiên cứu văn hóa Óc Eo chủ yếu được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu cũng như các học giả nước ngoài . Từ sau năm 1975

          3.2/  Một Số Kiến Trúc Tôn Giáo Trong Văn Hóa Óc Eo

           Do nằm ở một vị trí chiến lược quan trọng như đã trình bày ở trên, văn hóa Óc Eo từ sớm đã có tính chất của một nền văn hóa gắn với hoạt động thương mại mà cụ thể là những cảng thị nằm trên con đường buôn bán quốc tế, điều đó tất yếu đã tạo ra sự giao lưu văn hóa vô cùng lớn đối với nền văn hóa Óc Eo. Trong những mối giao lưu ảnh hưởng đó thì Tôn giáo, Tín ngưỡng là điều không thể thiếu. Văn hóa Óc Eo có sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ một số nền văn hóa bên ngoài mà đặc biệt là từ Ấn Độ. Các di tích kiến trúc mang mầu sắc tôn giáo trong văn hóa Óc Eo đã được các nhà nghiên cứu quan tâm, lý giải từ rất sớm trong sự đa dạng, phong phú về loại hình di vật cũng như hệ thống đồ sộ các di tích. chúng ta có thể liệt kê một số những di tích kiến trúc tôn giáo này như di tích : Kiến trúc Nền Chùa, kiến trúc Gò Cây Trôm, một số kiến trúc ở Ba Thê, kiến trúc Linh Miếu Bà, kiến trúc gò Tháp Mười, kiến trúc gò Minh Sư , kiến trúc Gò Xoài, kiến trúc gò Năm Tước, Gò Đồn, Trâm Quỳ, Cây Gáo …v…v…. Trong đó đặc biệt là những kiến trúc như: Kiến trúc Linh Miếu Bà, Gò Tháp Mười, Gò Xoài , Gò Minh Sư, Gò Cây Gáo … là những kiến trúc mang mầu sắc tôn giáo đậm nét. Di tích chùa Linh Sơn còn được gọi là chùa Phật bốn tay núi Ba Thê, tọa lạc tại xã Vọng Thê (nay là thị trấn Óc Eo), huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, Việt Nam. Đây là một trong những địa điểm hành hương nổi tiếng của tỉnh. Cũng tại nơi đây một pho tượng phật bốn tay đã được tìm thấy và có cả một tấm bia đá ghi những văn tự cổ mà theo các nhà nghiên cứu thì trên đó có khắc chữ Sankrit cổ. Cả hai cổ vật này đều có niên đại vào khoảng từ thế kỷ II đến thế kỷ VI sau công nguyên. Bức tượng Phật bốn tay đó (theo cách gọi dân gian) chính là bức tượng thần Vishnu trong Bà La Môn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ. Sự ảnh hưởng của các yếu tố tôn giáo từ bên ngoài du nhập vào Óc Eo là rất mạnh mẽ từ đó chúng ta thấy rằng trong tất cả các kiến trúc, di tích còn sót lại của nền văn hóa nổi tiếng này thì kiến trúc liên quan đến tôn giáo chiếm một số lượng khá lớn và tính chất rất quan trọng. Di tích Nam Linh Sơn Tự là một di tích nằm cách chùa Linh Sơn 60m, qua các cuộc khai quật vào những năm 1998, 1999 các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã làm phát lộ một di tích có tính chất tôn giáo quan trọng, đây là những kiến trúc thờ tự tương đối lớn, tồn tại trong văn hóa Óc Eo suốt một thời gian dài (có thể dễ dàng nhận thấy qua các dấu tích xây dựng mà khảo cổ học đã khai quật tại đây).  Khu di tích Gò Tháp được biết đến từ những năm cuối thế kỷ XIX và những thập kỷ đầu thế kỷ XX, một số nhà nghiên cứu người Pháp đã đến đây khảo sát cũng như công bố những phát hiện quan trọng về một số dấu tích kiến trúc cổ, tượng thờ, bia đá và văn tự cổ…

Từ sau năm 1975 khu di tích này được các nhà khảo cổ học Việt Nam đặc biệt quan tâm, đã tiến hành khảo sát, đào thám sát và khai quật nhiều lần. Đến nay, có thể nhận biết quy mô và tính chất của khu di tích Gò Tháp gồm 3 loại hình đó là: di chỉ cư trú, di tích kiến trúc và di tích mộ táng . Khu di tích Gò Tháp bao gồm các di tích tiêu biểu như : Gò Tháp Mười, Gò Minh Sư, Gò Bà Chúa Xứ. Trong di chỉ Gò Minh Sư qua các cuộc khai quật các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng đây là một di tích vừa có tính cư trú vừa có tính chất di chỉ mộ táng. Khu vực cư trú nằm phía dưới chân gò và rộng khắp cánh đồng chung quanh , bên cạnh đó thông qua các cuộc khai quật các nhà khảo cổ học cũng thu lượm được ở đây những chiếc nồi, chum có dấu tích của tro cốt. Ngoài các di tích cư trú và mộ táng thì tại khu vực Gò Tháp còn có một loại hình kiến trúc độc đáo đó là kiến trúc mang tính chất tôn giáo. Cụ thể, tại khu di tích  ‘Gò Tháp cao hơn mặt ruộng xung quanh khoảng 3,8m, diện tích chừng 4500m2. Từ những cuộc khảo sát của L.Malleret đã phát hiện trên gò có nhiều gạch và hàng chục khối đá lớn, yoni, cột… (như 3 cột lớn bằng đá hoa cương mặt cắt ngang hình vuông cạnh 0,48m, dài 1,56m, 1,10m và 1,42m, một đầu có chốt đầu kia có mộng để ghép nối theo chiều cao). Dấu tích rõ ràng nhất là kiến trúc gạch dài 17,30m theo hướng Đông – Tây, rộng 12m (Bắc – Nam), cạnh bẻ góc, đối xứng hai phần Bắc – Nam, cho thấy kiến trúc khá quy mô và có liên quan đến nhiều kiến trúc khác xung quanh. Di vật gồm những mảnh gốm bình ấm có vòi, một số mảnh vỡ của Yoni, tượng Visnu, khuông đúc, đặc biệt có 2 tượng Visnu rất đẹp tuy không nguyên vẹn’’[5]. Những đường dẫn nước được thiết kế có mục đích sử dụng trong những nghi lễ với vị trí đặc biệt, kết hợp với bình đồ kiến trúc tổng thể của những di tích ở đây là một bằng chứng không thể chối cãi về tính chất tôn giáo của những công trình kiến trúc này. Việc khai quật những di tích này đã mang đến những nhận thức sâu sa cho các nhà nghiên cứu.

Cũng trong khu di tích Gò Tháp này, một loại hình kiến trúc độc đáo đã được phát hiện đó là những trụ gạch được xây dựng trong khu vực trung tâm của kiến trúc nhìn từ trên xuống giống như hình chữ vạn mà theo các nhà nghiên cứu có tên tuổi trước đây cho rằng đó là những kiến trúc mộ táng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện được một ít tro than ở tận đáy những trụ gạch vuông này tuy nhiên chưa có bất kỳ một nghiên cứu nào cho thấy những than tro đó là xương cốt của người. Mặt khác trong các cuộc khai quật, các nhà khảo cổ học đã thu được một số mảnh vàng trong các trụ gạch đó, quan sát những họa tiết khắc trên những mảnh vàng ấy, chúng ta có thể thấy rằng trên những mảnh vàng đó thường khắc những hình hoa sen, hình voi hoặc là hình những vòng tròn như biểu tượng của mặt trời hay là biểu tượng của những bánh xe thần mặt trời Surya. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng giả thiết mộ táng về những trụ gạch này có vẻ như đã không đứng vững vì trên thực tế những hiện vật mà chúng ta thu được trong những trụ gạch đó minh chứng cho khả năng những trụ gạch này là những công trình kiến trúc mang tính chất tôn giáo. Việc phát hiện ra những mảnh vàng có khắc hình voi trong trụ gạch tại di tích Gò Xoài (1987) càng củng cố mạnh mẽ hơn quan điểm về tính chất tôn giáo, thờ tự của những trụ gạch này. hình voi xuất hiện trên tám lá vàng hình chữ nhật (dài 2,9x3,3cm; rộng 2,6x3,0cm). Những hình voi này được chạm khắc ở nhiều tư thế đứng khác nhau. Trong đó, bốn hình trong tư thế nhìn ngang, đầu hướng về phía trước, ngà cong nhọn, vòi buông thẳng xuống dưới, có một hình còn có thêm nhiều chấm nổi nhỏ trên trán. Ba hình voi khác trong tư thế nhìn ngang, đầu hướng về phía trước , ngà cong, vòi buông thỏng rồi cong nhẹ lên. Trong đó, hai con voi có trang trí những chấm nhỏ nổi ở trán. Hình voi thứ tám thể hiện đầu quay ngang, ngà nhọn, vòi uốn cong lên đến miệng, trên trán có chấm nổi. Nhìn chung, những hình trên đều được khắc họa khá hiện thực, dáng cân đối, trong tư thế vận động. Việc tìm thấy tám lá vàng hình voi bố trí theo tám hướng xung quanh những di vật vàng khác bên trong ô cát ở trung tâm kiến trúc Gò Xoài làm chúng ta liên tưởng đến biểu tượng của tám vị thần “bảo vệ, canh giữ thế giới” trong An Độ Giáo. Hoặc là tám con voi giúp tám vị thần bảo vệ lãnh địa của mình. Đó là voi Airavata của Indra bảo vệ hướng đông, voi Sarvabhaura của Kubera- hướng bắc, voi Vâmana của Yama- hướng nam, voi Anjana của Varuna- hướng tây, voi Pudarika của Agni - hướng đông nam, voi Kumuda của Surya- hướng tây nam, voi Pushpadanta của Vayu- hướng tây bắc, voi Supratica của Soma (hay Isanhi) - hướng đông bắc. Ngoài ra tám hướng ấy phải chăng là tám hướng lan tỏa của những tia sáng mặt trời ? Những lá vàng có khắc hình tượng những vòng tròn hoàn toàn có thể giúp chúng ta đặt ra một giả thiết về sự tồn tại của đền thờ thần Mặt Trời hay chí ít cũng liên quán đến Mặt Trời trong các di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo.

                 3.3/ Khả Năng Tồn Tại Đền Thờ Thần Mặt Trời Trong Văn Hóa Óc Eo 


      Như chúng ta đã biết, thần mặt trời hầu như ngự trị trong mọi nền văn minh của nhân loại từ buổi đầu sơ khai lịch sử loài người cho tới tận ngày nay. Trong cán nền văn minh phương đông cổ đại mà đặc biệt là nền văn minh Ấn Độ thì thần mặt trời là một vị thần vô cùng quan trọng . Văn hóa Óc Eo đã được khẳng định là có sự giao lưu, ảnh hưởng bởi những nền văn minh lớn trên thế giới như văn minh Ấn Độ, Trung Quốc và cả với văn minh Hy Lạp – La Mã cổ đại (thông qua những đồng tiền La Mã đã tìm thấy trong các di tích thuộc văn hóa Óc Eo). Như vậy, mối quan hệ, gắn bó giữa văn hóa Óc Eo và các nền văn hóa khác chắc chắn đã diễn ra. Đặc biệt là sự ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ. Bên cạnh đó, trong tất cả các nền văn minh kể trên thì thần Mặt Trời như đã trình bày có một vị trí đặc biệt quan trọng như vậy một lẽ dĩ nhiên là trong văn hóa Óc Eo thì phong tục thờ thần Mặt Trời chắc chắn phải có. Trong các bình đồ kiến trúc của các di tích mà chúng ta đã khai quật, nghiên cứu thì phần lớn các bình đồ kiến trúc ấy là kiến trúc tôn giáo, nhưng những kiến trúc đó thờ những ai?, mục đích gì ? Việc phát hiện ra các tượng của thần Vishnu trong các di tích kiến trúc như ở Gò Thành chẳng hạn thì chắc chắn rằng kiến trúc tôn giáo đấy là để phục vụ cho việc thờ thần Vishnu. Còn những nơi không phát hiện được tượng thì sao ? có lẽ chúng ta phải căn cứ trên những hiện vật tìm được để đoán định về công năng của những công trình kiến trúc này. Khả năng về sự tồn tại của đền thờ thần Mặt Trời trong văn hóa Óc Eo là hoàn toàn có cơ sở khi chúng ta xem xét những dấu tích còn lại trong những khu vực kiến trúc đã được khai quật. Chẳng hạn như di tích kiến trúc Miếu Bà Chúa Xứ (tại khu vực Gò Tháp Mười, Đồng Tháp) khi quan sát bình đồ kiến trúc tại nơi đây chúng ta thấy rằng ở khoảng chính giữa của công trình kiến trúc là một biểu tượng hình học mang nhiều ý nghĩa mà một số học giả trước đây đã gọi nó là hình hoa thị, được xây dựng bằng gạch, tuy nhiên chúng ta hãy thử mở rộng hơn nữa khả năng tưởng tượng của não bộ, nhân văn, khái quát hóa hơn nữa về biểu tượng hình học này thì không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là hình ảnh của mặt trời với 8 tia sáng của nó (tuy chỉ còn lại 7 tia nhưng chắc chắn phải là 8 tia) tượng trưng cho ánh sáng mặt trời lan tỏa khắp bốn phương tám hướng. Điều đó có nghĩa là nơi đây cũng chính là một trong những đền thờ thần Mặt Trời của nền văn hóa Óc Eo. Không chỉ dừng lại ở một phát hiện đơn thuần như vậy, cuộc khai quật Gò Cây Gáo (Trị An , Đồng Nai) đã cung cấp một tư liệu đặc biệt quan trọng cho những nhà nghiên cứu.

Nhìn trên tổng thể bình đồ kiến trúc của gò Cây Gáo thì phần trung tâm khu vực kiến trúc của di tích Gò Cây Gáo là một vòng tròn bên ngoài được bao bọc bởi một hình vuông được xây bằng gạch và một hình vuông lớn hơn lại tiếp tục được xây dựng bao bọc hình vuông nhỏ. Kiến trúc này khiến chúng ta gợi nhớ tới kiến trúc của Thiên Đàn (Đàn Tế Trời) tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Vòng tròn được xây dựng tại trung tâm của kiến trúc cho chúng ta thấy ý nghĩa quan trọng của nó. Bên trong vòng tròn tại di tích Gò Cây Gáo các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng có một ít than tro, than tro đó theo ý kiến của cá nhân thì phải chăng đó là sản phẩm cuối cùng của quá trình phát sáng, thiêu đốt của mặt trời. Không chỉ dừng lại ở đấy, việc phát hiện ra những lá vàng có khắc những họa tiết hoa văn là những hình tròn , điều đó tạo cho người quan sát một sự liên tưởng đến chiếc bánh xe của thần Mặt Trời Saurya trong nền văn minh cổ đại của Ấn Độ. Những lá vàng có họa tiết trang trí khá giống với bánh xe thần Mặt Trời Saurya. những chiếc nan hoa được thể hiện trên những miếng vàng tại các khu di tích mà các nhà khảo cổ học đã khai quật được giúp chúng ta liên tưởng đến hình tượng của những chiếc bánh xe thần Mặt Trời tại đèn thờ thần Mặt Trời ở Karnack (Ấn Độ). Một bằng chứng không thể chối cãi về việc tồn tại đền thờ thần Mặt Trời trong nền văn hóa này đó là việc tìm ra tượng thần Saurya. Bức tượng thần Mặt Trời Saurya này được làm từ đá Sa Thạch được phát hiện vào mùa hè năm 1928. Niên đại được nhận định, của bức tượng vào khoảng trên dưới 1500 năm cách này nay. Đặc điểm của bức tượng này là pho tượng sinh động tạc trong tư thế đứng, với ghi chú về chiều cao 90 cm, bề ngang chỗ rộng nhất 38 cm, nặng 80 kg. Tượng tạo hình với mũ trụ (hình bát giác) đội trên đầu, hàng lông mày trên phía mắt phải kéo dài ra gần nối với hàng lông mày trên mắt trái, thành nét mày liên hoàn trông tựa hình đôi cánh chim mỏng đang bay, vắt ngang vầng trán của thần. Hai tai đều có đeo hoa tai dài xuống chạm vai. Cổ tay có đồ trang sức và hai bàn tay đang cầm hai nụ hoa sen đưa lên trước ngực. Nhìn kỹ, tượng thần bận áo cổ tròn có những đường gờ linh động ở thân áo, tạo thành nếp gấp mềm mại kéo dài xuống phía đầu gối. Với tạo hình mỹ thuật hài hòa, cân đối, tượng thần Surya không chỉ điển hình cho nghệ thuật chạm khắc của nền văn hóa Óc Eo một thời mà còn được xem là một trong những tác phẩm đại diện và tượng trưng cho một phong cách nghệ thuật sớm ở khu vực Đông Nam Á .

                Như vậy từ những vấn đề đã nêu ra ở trên chúng ta hoàn tòan có đủ cơ sở để tin rằng trong lịch sử phát triển rực rỡ của mình đặc biệt ở lĩnh vực tôn giáo, thì thần Mặt Trời cũng có một ý nghĩa quan trọng đối với nền văn hóa Óc Eo ngay tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Việc phát hiện ra những dấu vết liên quan đến đền thờ thần Mặt Trời và tượng thần Mặt Trời cho phép chúng ta tin rằng trong những kiến trúc tôn giáo tìm thấy trong văn hóa Óc Eo chắc chắn có tồn tại đền thờ thần Mặt Trời. Bên cạnh đó những kiến trúc gạch được xếp theo hình chữ Vạn cũng không phải là những mộ táng đơn thuần mà nhiều khả năng đó là những kiến trúc tôn giáo được sử dụng cho việc thờ tự. Tuy nhiên những phát hiện và suy nghĩ trên mới chỉ dừng lại ở mức độ gợi mở, cần tiếp tục được nghiên cứu ở những công trình có tính chất chuyên khảo, với những cuộc điều tra, điền dã, thám sát, khai quật khảo cổ học một cách khoa học và nghiêm túc nhất.

Tài Liệu Tham Khảo: 


n    Lê Xuân Diệm-Đào Linh Côn-Võ Sỹ Khải (1995). Văn Hóa Óc Eo Những Khám Phá Mới .NXB Khoa Học Xã Hội
n    Lương Ninh (2006) . Nước Phù Nam . NXB Đại Học Quốc Gia
n    Một Số Vấn Đề Khảo Cổ Học Miền Nam Việt Nam Tập II (2003) . NXB Khoa Học Xã Hội
n    AnJana Mothar Chandra (2009) . 5000 năm Lịch Sử Và Văn Hóa Ấn Độ . NXB Văn Hóa Thông Tin



































[1] http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_t%C3%B4n_gi%C3%A1o
[2] http://vi.wikipedia.org/wiki/Stonehenge
[3] http://www.khoahoc.com.vn/khampha/1001-bi-an/36441_Tiet-lo-dong-troi-ve-dai-thien-van-Stonehenge.aspx
[4] http://www.khoahoc.com.vn/khampha/1001-bi-an/36441_Tiet-lo-dong-troi-ve-dai-thien-van-Stonehenge.aspx
[5] http://namkyluctinh.org/a-vh-vminh/nthau-ditichgothap.htm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét