Đình Bình Hòa
Đình Bình Hòa được xây dựng tại
vùng Gia Định nay là tp.HCM, hiện tọa lạc tại số 15/77 Chu Văn An, phường 12,
quận Bình Thạnh. Đình được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, tính đến nay
ngôi đình đã có lịch sử tồn tại trên 200 năm. Vị trí của đình được xây dựng
trên một gò cao so với vùng xung quanh thể hiện sự tôn nghiêm của ngôi đình,
bên cạnh đó đình quay mặt về phía Đông đón nhận ánh sáng của mặt trời buổi ban
mai, cũng như đón nhận dương khí theo quan niệm Đông Phương cổ đại. Trải qua
dòng thời gian tồn tại ngôi đình đã được trùng tu lại qua một số lần cụ thể như
: vào năm 1877 đình được trùng tu dưới sự chỉ đạo của ông Lê Văn Huê, năm 1924
ông Lê Văn Ý đứng ra trùng tu lại đình, năm 1972 đình được xây dựng thêm phần
võ ca với khung bằng chất liệu thép và lợp tôn. Sau năm 1975 đình có thời gian
tạm thời bị bỏ quên, tuy nhiên do nhận thấy những giá trị văn hóa – lịch sử của
ngôi đình này, nhà nước đã có những kế hoạch trùng tu lại ngôi đình vào những
năm 1990 và quá trình trùng tu tiếp tục kéo dài cho đến đợt trùng tu lớn nhất
và cuối cùng vào năm 1998 đã hoàn chỉnh về hình dáng cũng như kết cấu của ngôi
đình cho đến tận ngày nay.
Nhìn
chung về cơ bản qua các lần trùng tu đình Bình Hòa vẫn giữ được nét kiến trúc
như ban đầu. Nhìn tổng thể đình Bình Hòa có kiến trúc dạng chữ Đinh với hai
trục chính và phụ vuông góc với nhau. Giữa hai trục chính và phụ cách nhau bởi
một khoảng sân nhỏ gọi là sân Thiên Tĩnh, mục đích chính của sân này là lấy ánh
sáng mặt trời đồng thời qua đó tạo nên sự cân bằng giữa tối và sáng trong khu
vực đình. trên phần trục chính tập trung những công trình kiến trúc quan trọng
của đình bao gồm : Tiền điện, Trung điện, Chính điện. Trục phụ nằm phía bên
trái của trục chính bao gồm các công trình : nhà túc, nhà kho và nhà bếp. Từ
ngoài vào theo lối trục chính chúng ta gặp cổng đình được xây dựng theo kiểu
tam quan, phía trên cổng đình có trang trí cặp lưỡng tranh châu bằng gốm, đường
nét tạo tác mang giá trị biểu cảm thẩm mỹ cao, những đường cong uốn lượn của
thân rồng như ẩn chứa một sức mạnh to lớn đang tiềm tàng tạo nên vẻ đẹp trang
nghiêm cho toàn bộ công trình phía sau. Bia Ông hổ được đắp trang nhiêm, kính
cẩn trong tư thế oai dũng lạ thường (bia ông hổ thường khá phổ biến trong các
đình tại Nam Bộ).
Hai
bên cổng đình có dựng miếu Ngũ hành và miếu Thần Nông. Tiếp sau cổng đình là
tới khu vực sân đình, sân đình có diện tích khá lớn “17m x 25m”[1],
sân đình được lát bằng gạch tàu, đây là nơi thường diễn ra các hoạt động vui
chơi, giải trí mang tính cộng đồng, xã hội thường thấy của bất kỳ ngôi đình
nào. Tiếp sau khoảng sân đình là không gian kiến trúc chính với tiền điện được
thiết kế khá rộng lớn, khiến cho tổng thể kiến trúc toàn ngôi đình thêm phần uy
nghi, tráng lệ.
Tiền
điện bao gồm ba cửa, được làm bằng gỗ và được sơn son. Trong tiền điện, đầu
tiên tác động tới thị giác của người viếng đình là những hàng cột to lớn có
kích thước đường kính thân cột từ khoảng 35cm đến 40cm được làm bằng gỗ gõ vốn
là loại gỗ tốt có độ bền cao. Thời gian đã làm cho những cột gỗ nơi đây có được
cái vẻ trầm mặc, u hoài với thời gian như phảng phất đâu đó nỗi niềm của quá
vãng. Những cột gỗ này thuộc dạng hiếm có trong kiến trúc các đình, chùa ở
tp.HCM bởi kích thước của chúng. Kết cấu của tiền điện tuân theo mô thức tứ
tượng tức là bốn cột gỗ chính cách đều nhau theo bình đồ hình vuông. Kết cấu Tứ
tượng vốn chỉ được dùng trong các công trình, kiến trúc thờ tự. Cũng như các
ngôi đình khác, đình Bình Hòa được dựng lên bằng hệ thống vì kèo, kẻ, chuyền,
các kết cấu rui mè, tạo nên sự liên kết cho toàn thể công trình. Phần mái chính
điện được lợp ngói tạo nên sự hòa hợp cũng như điểm nhấn cho ngôi đình.
Trong
tiền điện đình Bình Hòa có đặt Long Đình, đây chính là kiệu để rước sắc của
đình trong các dịp lễ Kỳ Yên thường thấy tại vùng đất Nam Bộ. Tiếp sau tiền
điện là trung điện, trung điện ở đình Bình Hòa được dựng lên bằng những cột gỗ
lớn cũng theo mô thức tứ tượng như đã trình bày ở trên. Phần mái của trung điện
được thiết kế theo kiểu chồng diềm bao gồm 2 tầng có tác dụng làm cho phần mái
trở nên cao hơn góp phần tạo sự bề thế cho toàn thể kiến trúc cũng như lấy thêm
ánh sáng cho phần trung điện. Trên mái của trung điện được trang trí bởi những
phù điêu lưỡng long tranh châu ở giữa và hai bên trái phải là những phù điêu cá
chép hóa rồng được làm bằng gốm có giá trị mỹ thuật cao, qua đó phần nào thể
hiện được trình độ tay nghề cũng như kỹ thuật tạo tác của người thợ gốm xưa tại
mảnh đất Sài gòn – Gia định. Bao quanh trung điện là tường xây bằng gạch và nền
đượt lát bằng gạch tàu tạo nên sự khép kín cho khu vực thờ tự .
Trong
trung điện của đình Bình Hòa có 4 bàn thờ. Phía bên ngoài có bàn thờ, nghi án,
phía bên trong bao gồm 3 bàn thờ, chính giữa là bàn thờ hội đồng ngoại, bên
trái (theo hướng bàn thờ, là bàn thờ Đông Hiếu, bên phải là bàn thờ Tây Hiếu).
Các bàn thờ này đều được làm bằng gỗ, chạm trổ hoa văn tinh xảo trên từng đường
nét theo lối chạm lộng, điều đó cho thấy trình độ chế tác trên vật liệu gỗ của
cư dân Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ này đã đạt đến tầm cao của nghệ thuật
chạm khắc. Những đồ án trang trí hình mai hóa rồng trên những bàn thờ vừa thể
hiện được cái dáng uốn lượn của rồng vừa thể hiện được sự cằn cỗi già nua nhưng
đầy sức sống của những gốc mai cổ thụ kết hợp với sơn son thiết vàng làm cho
phối cảnh khiến cho trung điện thật lộng lẫy và uy nghiêm. Đặc biệt trong trung
điện còn có cặp liễn đối “Giáng Long” được sơn son thiết vàng với nét chạm trổ
tinh xảo, hình ảnh rồng đầy sức tạo hình được thể hiện xen lẫn, lẩn khuất với
những đám mây tương tự như họa tiết “Long ẩn vân” thường thấy trên các đĩa sứ
thời Lê – Nguyễn .
Tiếp
sau trung điện là chính điện, đây là phần kiến trúc quan trọng nhất tập trung
những bàn thờ chính của ngôi đình. Chính điện với phần mái được thiết kế một
tầng với mục đích hạn chế tối đa lượng ánh sáng lọt vào nhằm tạo một không gian
trang nghiêm và đượm chút thần bí vốn là điều thường thấy trong kiến trúc đình,
chùa từ xa xưa. Hệ thống vì kèo ở đây cũng được sử dụng hoàn toàn bằng vật liệu
gỗ. các liên kết cột kèo chủ yếu là liên kết bằng mộng, chèm…. nêm…… Từ ngoài
bước vào chính điện, chúng ta sẽ gặp ban thờ hội đồng nội trên bàn thờ có bài
vị đề “Cung thỉnh Đại Càn Quốc Gia Nam
Hải Thần Chiêu Linh Ứng Tứ Vị Thánh Nương Nương”[2].
Phía trước bàn thờ có đặt một bộ bát bửu. Phía sau bài vị trước khám thờ thần
là một chiếc bàn bằng gỗ được điêu khắc, chạm trổ tinh xảo các hình họa tiết
đầu rồng và những đề tài hoa mẫu đơn, cúc trĩ, cũng được thể hiện một cách sinh
động và được sơn son thiết vàng. Trên bàn thờ này có đặt bộ lư hương bằng đồng
để người đến có thể thắp hương trước khi vào khám thờ “Thần” ở phía cuối cùng
của chính điện. Cuối chính điện là khám thờ “thần” được đặt trên một bàn thờ
bằng gỗ chính giữa khám thờ có bài vị “thần” bằng chữ hán và bốn bài vị nữa ở
hai bên .
Khám
thờ “thần” bằng gỗ trong đình Bình Hòa được chạm khắc hoa văn tinh xảo theo lối
chạm lộng với những đường nét chạm rất thật, sắc nét với những đề tài trang trí
thể hiện sự thanh cao, thoát tục theo quan niệm cổ xưa như đề tài Mai – Điểu,
Cúc Trĩ, Sóc Nho…v…v…. và tất cả đều được sơn son thiết vàng. Sự tôn kính trong
chính điện của đình Bình Hòa càng được tăng lên khi người xưa phối trí cho hai
ban thờ Tả Ban và Hữu Ban ở hai bên bàn thờ “Thần” làm cho không gian thờ tự
như rộng lớn và uy nghiêm hơn. Những đồ vật được trưng bày phía trong chính
điện cũng là những đồ vật có giá trị lịch sử lâu đời đáng lưu ý như : trống,
chiêng, bạch mã làm vật cưỡi cho thần linh…… Ngoài ra những bức trướng vải lụa
và những câu đối bằng chữ Hán phồn thể cũng là những hiện vật vô cùng quý hiếm.
Bên cạnh đó, chính điện đình Bình Hòa còn có 3 bức hoành phi được lưu giữ bao
gồm “Cầu chi tất linh”, “Thành tài phụ tướng”, “Thần tứ phong cương”.
Cũng
như những ngôi đình khác trong cả nước, đình Bình Hòa có đối tượng thờ tự chính
là thần Thành Hoàng. Thần được thờ tại đình là Tứ vị thánh bà “nguyên là Dương thái hậu và ba nàng công
chúa Trung Hoa đời Nam Tống cùng thờ với vị Thành Hoàng là vị có công xây dựng
cơ nghiệp tên là Lê Thi, vị cai tổng có công khai khẩn tên Hoàng Lương”[3].
Tục thờ thần Thành Hoàng vốn là sự du nhập văn hóa từ phương Bắc, dần dà đã trở
thành một truyền thống trong văn hóa làng xã của Việt Nam . Truyền thống đó cũng phù hợp
với dòng chảy lịch sử - văn hóa của đất nước ta và truyền thống này đã theo bước
trong hành trang tâm linh của những lưu dân xuôi từ vùng Thuận – Quảng vào
phương Nam khai khẩn vùng đất mới. Thành Hoàng hiển nhiên đã trở thành một vị
thần quan trọng đối với văn hóa làng xã Nam Bộ nói chung và khu vực Sài Gòn –
Gia Định nói riêng. Thành Hoàng được thờ trong đình với nhiệm vụ thiêng liêng
là “Hộ Quốc Tý Dân” đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của cư
dân Nam Bộ .
Ở
phần trục kiến trúc phụ của đình Bình Hòa bao gồm nhà Túc, kho và nhà bếp. Đây
tuy là phần kiến trúc phụ của đình, nhưng phần kiến trúc này cũng được kiến tạo
một cách vững chắc bằng kết cấu gỗ tương tự như phần kiến trúc trên trục chính,
chỉ có điều quy mô nhỏ hơn. Phần kiến trúc phụ này góp phần tạo nên một không
gian rộng lớn cho toàn thể đình Bình Hòa. Những ban thờ bằng gỗ được xắp xếp
trong Túc Đường có một vẻ đẹp rất tinh tế của kỹ thuật chạm khắc trên gỗ. Những
hoa văn cũng như đề tài trang trí trên các ban thờ này thiết nghĩ còn là những
vấn đề đáng nghiên cứu trong những bài nghiên cứu có tính chuyên khảo dưới góc
độ tiếp cận của nghệ thuật điêu khắc gỗ tại Nam Bộ. Chính giữa nhà Túc Đường
của đình Bình Hòa có ban thờ “tiền hiền, hậu hiền” là những người đi trước đã
có công xây dựng và vun đắp nên sự phù sa, tươi tốt cho vùng đất này, đây hẳn
là thái độ uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây vốn đã đi sâu vào nhận
thức của mỗi con người Việt .
Hai
bên bàn thờ “tiền hiền, hậu hiền” là bàn thờ các anh hùng liệt sỹ của dân tộc
và bàn thờ “tiền vãn, hậu vãn” cũng là những người có công trong việc mở mang
và xây dựng cơ ngơi nơi đây đó chính là những “Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền
khai cơ” trong dòng văn hóa truyền thống của người Việt. Với kết cấu ba gian
hai chái, tổng thể công trình kiến trúc phụ này đã đóng một vai trò cần thiết,
quan trọng đối với toàn thể kiến trúc đình Bình Hòa nói chung. Khu vực công
trình phụ này cũng là nơi chuẩn bị cho các hoạt động tế lễ trong đình .
Đình Bình Hòa với tuổi đời tồn tại
cho đến hiện tại là hơn hai trăm năm, với từng ấy thời gian sống cùng lịch sử
đầy biến động của vùng đất Sài Gòn – Gia Định, đình vẫn còn tồn tại gần như
nguyên vẹn so với hình thức kiến trúc ban đầu là một cố gắng to lớn trong công
cuộc bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn hóa vật thể - phi vật thể của
nước ta. Đình Bình Hòa tồn tại trầm mặc với thời gian, mang trong mình một nét
gì đó thật đơn sơ, thân thiện, giản dị mà cũng thật uy nghiêm, nó lưu dấu những
ký ức hoài niệm về vùng đất Sài gòn – Gia định gần như trong suốt chiều dài
lịch sử. Ngôi đình cùng với hơn 30 cổ vật đều có những giá trị đặc biệt về văn
hóa và lịch sử, qua đó phản ánh một phần về đời sống cũng như quan niệm về thế
giới tâm linh của người Việt tại khu vực Sài Gòn nói riêng, cũng như cả vùng
Nam Bộ nói chung .
Tài
Liệu Tham Khảo
Di
Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh Một Số Tín Ngưỡng Dân Gian, Ban Quản
Lý Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Và Danh Lam Thắng Cảnh năm 2001
Bảo
Tàng Cách Mạng Thành Phố Hồ Chí Minh, Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí
Minh, NXB Trẻ Năm 1998
Huỳnh
Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ Xưa Và Nay, NXB Đồng Nai
Nguyễn
Hữu Hiến, Tìm Hiểu Văn Hóa Tâm Linh Nam Bộ, NXB Trẻ Năm 2004
[1] Phùng Hoàng Anh , Đình Bình Hòa , “Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí
Minh Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian” Trang 45
[2] Phùng
Hoàng Anh , Đình Bình Hòa , “Di Tích Lịch
Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian” Trang 47
[3] Di Tích
Lịch Sử Văn Hóa TP.HCM, NXB Trẻ TPHCM trang 198
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét