Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Đình Bình Hòa, Quận Bình Thạnh

                                                   Đình Bình Hòa


            Đình Bình Hòa được xây dựng tại vùng Gia Định nay là tp.HCM, hiện tọa lạc tại số 15/77 Chu Văn An, phường 12, quận Bình Thạnh. Đình được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX, tính đến nay ngôi đình đã có lịch sử tồn tại trên 200 năm. Vị trí của đình được xây dựng trên một gò cao so với vùng xung quanh thể hiện sự tôn nghiêm của ngôi đình, bên cạnh đó đình quay mặt về phía Đông đón nhận ánh sáng của mặt trời buổi ban mai, cũng như đón nhận dương khí theo quan niệm Đông Phương cổ đại. Trải qua dòng thời gian tồn tại ngôi đình đã được trùng tu lại qua một số lần cụ thể như : vào năm 1877 đình được trùng tu dưới sự chỉ đạo của ông Lê Văn Huê, năm 1924 ông Lê Văn Ý đứng ra trùng tu lại đình, năm 1972 đình được xây dựng thêm phần võ ca với khung bằng chất liệu thép và lợp tôn. Sau năm 1975 đình có thời gian tạm thời bị bỏ quên, tuy nhiên do nhận thấy những giá trị văn hóa – lịch sử của ngôi đình này, nhà nước đã có những kế hoạch trùng tu lại ngôi đình vào những năm 1990 và quá trình trùng tu tiếp tục kéo dài cho đến đợt trùng tu lớn nhất và cuối cùng vào năm 1998 đã hoàn chỉnh về hình dáng cũng như kết cấu của ngôi đình cho đến tận ngày nay.

Nhìn chung về cơ bản qua các lần trùng tu đình Bình Hòa vẫn giữ được nét kiến trúc như ban đầu. Nhìn tổng thể đình Bình Hòa có kiến trúc dạng chữ Đinh với hai trục chính và phụ vuông góc với nhau. Giữa hai trục chính và phụ cách nhau bởi một khoảng sân nhỏ gọi là sân Thiên Tĩnh, mục đích chính của sân này là lấy ánh sáng mặt trời đồng thời qua đó tạo nên sự cân bằng giữa tối và sáng trong khu vực đình. trên phần trục chính tập trung những công trình kiến trúc quan trọng của đình bao gồm : Tiền điện, Trung điện, Chính điện. Trục phụ nằm phía bên trái của trục chính bao gồm các công trình : nhà túc, nhà kho và nhà bếp. Từ ngoài vào theo lối trục chính chúng ta gặp cổng đình được xây dựng theo kiểu tam quan, phía trên cổng đình có trang trí cặp lưỡng tranh châu bằng gốm, đường nét tạo tác mang giá trị biểu cảm thẩm mỹ cao, những đường cong uốn lượn của thân rồng như ẩn chứa một sức mạnh to lớn đang tiềm tàng tạo nên vẻ đẹp trang nghiêm cho toàn bộ công trình phía sau. Bia Ông hổ được đắp trang nhiêm, kính cẩn trong tư thế oai dũng lạ thường (bia ông hổ thường khá phổ biến trong các đình tại Nam Bộ).

Hai bên cổng đình có dựng miếu Ngũ hành và miếu Thần Nông. Tiếp sau cổng đình là tới khu vực sân đình, sân đình có diện tích khá lớn “17m x 25m”[1], sân đình được lát bằng gạch tàu, đây là nơi thường diễn ra các hoạt động vui chơi, giải trí mang tính cộng đồng, xã hội thường thấy của bất kỳ ngôi đình nào. Tiếp sau khoảng sân đình là không gian kiến trúc chính với tiền điện được thiết kế khá rộng lớn, khiến cho tổng thể kiến trúc toàn ngôi đình thêm phần uy nghi, tráng lệ.

Tiền điện bao gồm ba cửa, được làm bằng gỗ và được sơn son. Trong tiền điện, đầu tiên tác động tới thị giác của người viếng đình là những hàng cột to lớn có kích thước đường kính thân cột từ khoảng 35cm đến 40cm được làm bằng gỗ gõ vốn là loại gỗ tốt có độ bền cao. Thời gian đã làm cho những cột gỗ nơi đây có được cái vẻ trầm mặc, u hoài với thời gian như phảng phất đâu đó nỗi niềm của quá vãng. Những cột gỗ này thuộc dạng hiếm có trong kiến trúc các đình, chùa ở tp.HCM bởi kích thước của chúng. Kết cấu của tiền điện tuân theo mô thức tứ tượng tức là bốn cột gỗ chính cách đều nhau theo bình đồ hình vuông. Kết cấu Tứ tượng vốn chỉ được dùng trong các công trình, kiến trúc thờ tự. Cũng như các ngôi đình khác, đình Bình Hòa được dựng lên bằng hệ thống vì kèo, kẻ, chuyền, các kết cấu rui mè, tạo nên sự liên kết cho toàn thể công trình. Phần mái chính điện được lợp ngói tạo nên sự hòa hợp cũng như điểm nhấn cho ngôi đình.   

Trong tiền điện đình Bình Hòa có đặt Long Đình, đây chính là kiệu để rước sắc của đình trong các dịp lễ Kỳ Yên thường thấy tại vùng đất Nam Bộ. Tiếp sau tiền điện là trung điện, trung điện ở đình Bình Hòa được dựng lên bằng những cột gỗ lớn cũng theo mô thức tứ tượng như đã trình bày ở trên. Phần mái của trung điện được thiết kế theo kiểu chồng diềm bao gồm 2 tầng có tác dụng làm cho phần mái trở nên cao hơn góp phần tạo sự bề thế cho toàn thể kiến trúc cũng như lấy thêm ánh sáng cho phần trung điện. Trên mái của trung điện được trang trí bởi những phù điêu lưỡng long tranh châu ở giữa và hai bên trái phải là những phù điêu cá chép hóa rồng được làm bằng gốm có giá trị mỹ thuật cao, qua đó phần nào thể hiện được trình độ tay nghề cũng như kỹ thuật tạo tác của người thợ gốm xưa tại mảnh đất Sài gòn – Gia định. Bao quanh trung điện là tường xây bằng gạch và nền đượt lát bằng gạch tàu tạo nên sự khép kín cho khu vực thờ tự .  

Trong trung điện của đình Bình Hòa có 4 bàn thờ. Phía bên ngoài có bàn thờ, nghi án, phía bên trong bao gồm 3 bàn thờ, chính giữa là bàn thờ hội đồng ngoại, bên trái (theo hướng bàn thờ, là bàn thờ Đông Hiếu, bên phải là bàn thờ Tây Hiếu). Các bàn thờ này đều được làm bằng gỗ, chạm trổ hoa văn tinh xảo trên từng đường nét theo lối chạm lộng, điều đó cho thấy trình độ chế tác trên vật liệu gỗ của cư dân Sài Gòn - Gia Định trong thời kỳ này đã đạt đến tầm cao của nghệ thuật chạm khắc. Những đồ án trang trí hình mai hóa rồng trên những bàn thờ vừa thể hiện được cái dáng uốn lượn của rồng vừa thể hiện được sự cằn cỗi già nua nhưng đầy sức sống của những gốc mai cổ thụ kết hợp với sơn son thiết vàng làm cho phối cảnh khiến cho trung điện thật lộng lẫy và uy nghiêm. Đặc biệt trong trung điện còn có cặp liễn đối “Giáng Long” được sơn son thiết vàng với nét chạm trổ tinh xảo, hình ảnh rồng đầy sức tạo hình được thể hiện xen lẫn, lẩn khuất với những đám mây tương tự như họa tiết “Long ẩn vân” thường thấy trên các đĩa sứ thời Lê – Nguyễn .

Tiếp sau trung điện là chính điện, đây là phần kiến trúc quan trọng nhất tập trung những bàn thờ chính của ngôi đình. Chính điện với phần mái được thiết kế một tầng với mục đích hạn chế tối đa lượng ánh sáng lọt vào nhằm tạo một không gian trang nghiêm và đượm chút thần bí vốn là điều thường thấy trong kiến trúc đình, chùa từ xa xưa. Hệ thống vì kèo ở đây cũng được sử dụng hoàn toàn bằng vật liệu gỗ. các liên kết cột kèo chủ yếu là liên kết bằng mộng, chèm…. nêm…… Từ ngoài bước vào chính điện, chúng ta sẽ gặp ban thờ hội đồng nội trên bàn thờ có bài vị đề “Cung thỉnh Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thần Chiêu Linh Ứng Tứ Vị Thánh Nương Nương”[2]. Phía trước bàn thờ có đặt một bộ bát bửu. Phía sau bài vị trước khám thờ thần là một chiếc bàn bằng gỗ được điêu khắc, chạm trổ tinh xảo các hình họa tiết đầu rồng và những đề tài hoa mẫu đơn, cúc trĩ, cũng được thể hiện một cách sinh động và được sơn son thiết vàng. Trên bàn thờ này có đặt bộ lư hương bằng đồng để người đến có thể thắp hương trước khi vào khám thờ “Thần” ở phía cuối cùng của chính điện. Cuối chính điện là khám thờ “thần” được đặt trên một bàn thờ bằng gỗ chính giữa khám thờ có bài vị “thần” bằng chữ hán và bốn bài vị nữa ở hai bên .  

Khám thờ “thần” bằng gỗ trong đình Bình Hòa được chạm khắc hoa văn tinh xảo theo lối chạm lộng với những đường nét chạm rất thật, sắc nét với những đề tài trang trí thể hiện sự thanh cao, thoát tục theo quan niệm cổ xưa như đề tài Mai – Điểu, Cúc Trĩ, Sóc Nho…v…v…. và tất cả đều được sơn son thiết vàng. Sự tôn kính trong chính điện của đình Bình Hòa càng được tăng lên khi người xưa phối trí cho hai ban thờ Tả Ban và Hữu Ban ở hai bên bàn thờ “Thần” làm cho không gian thờ tự như rộng lớn và uy nghiêm hơn. Những đồ vật được trưng bày phía trong chính điện cũng là những đồ vật có giá trị lịch sử lâu đời đáng lưu ý như : trống, chiêng, bạch mã làm vật cưỡi cho thần linh…… Ngoài ra những bức trướng vải lụa và những câu đối bằng chữ Hán phồn thể cũng là những hiện vật vô cùng quý hiếm. Bên cạnh đó, chính điện đình Bình Hòa còn có 3 bức hoành phi được lưu giữ bao gồm “Cầu chi tất linh”, “Thành tài phụ tướng”, “Thần tứ phong cương”.

Cũng như những ngôi đình khác trong cả nước, đình Bình Hòa có đối tượng thờ tự chính là thần Thành Hoàng. Thần được thờ tại đình là Tứ vị thánh bà “nguyên là Dương thái hậu và ba nàng công chúa Trung Hoa đời Nam Tống cùng thờ với vị Thành Hoàng là vị có công xây dựng cơ nghiệp tên là Lê Thi, vị cai tổng có công khai khẩn tên Hoàng Lương”[3]. Tục thờ thần Thành Hoàng vốn là sự du nhập văn hóa từ phương Bắc, dần dà đã trở thành một truyền thống trong văn hóa làng xã của Việt Nam. Truyền thống đó cũng phù hợp với dòng chảy lịch sử - văn hóa của đất nước ta và truyền thống này đã theo bước trong hành trang tâm linh của những lưu dân xuôi từ vùng Thuận – Quảng vào phương Nam khai khẩn vùng đất mới. Thành Hoàng hiển nhiên đã trở thành một vị thần quan trọng đối với văn hóa làng xã Nam Bộ nói chung và khu vực Sài Gòn – Gia Định nói riêng. Thành Hoàng được thờ trong đình với nhiệm vụ thiêng liêng là “Hộ Quốc Tý Dân” đóng một vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của cư dân Nam Bộ .

Ở phần trục kiến trúc phụ của đình Bình Hòa bao gồm nhà Túc, kho và nhà bếp. Đây tuy là phần kiến trúc phụ của đình, nhưng phần kiến trúc này cũng được kiến tạo một cách vững chắc bằng kết cấu gỗ tương tự như phần kiến trúc trên trục chính, chỉ có điều quy mô nhỏ hơn. Phần kiến trúc phụ này góp phần tạo nên một không gian rộng lớn cho toàn thể đình Bình Hòa. Những ban thờ bằng gỗ được xắp xếp trong Túc Đường có một vẻ đẹp rất tinh tế của kỹ thuật chạm khắc trên gỗ. Những hoa văn cũng như đề tài trang trí trên các ban thờ này thiết nghĩ còn là những vấn đề đáng nghiên cứu trong những bài nghiên cứu có tính chuyên khảo dưới góc độ tiếp cận của nghệ thuật điêu khắc gỗ tại Nam Bộ. Chính giữa nhà Túc Đường của đình Bình Hòa có ban thờ “tiền hiền, hậu hiền” là những người đi trước đã có công xây dựng và vun đắp nên sự phù sa, tươi tốt cho vùng đất này, đây hẳn là thái độ uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây vốn đã đi sâu vào nhận thức của mỗi con người Việt .

Hai bên bàn thờ “tiền hiền, hậu hiền” là bàn thờ các anh hùng liệt sỹ của dân tộc và bàn thờ “tiền vãn, hậu vãn” cũng là những người có công trong việc mở mang và xây dựng cơ ngơi nơi đây đó chính là những “Tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai cơ” trong dòng văn hóa truyền thống của người Việt. Với kết cấu ba gian hai chái, tổng thể công trình kiến trúc phụ này đã đóng một vai trò cần thiết, quan trọng đối với toàn thể kiến trúc đình Bình Hòa nói chung. Khu vực công trình phụ này cũng là nơi chuẩn bị cho các hoạt động tế lễ trong đình .

           Đình Bình Hòa với tuổi đời tồn tại cho đến hiện tại là hơn hai trăm năm, với từng ấy thời gian sống cùng lịch sử đầy biến động của vùng đất Sài Gòn – Gia Định, đình vẫn còn tồn tại gần như nguyên vẹn so với hình thức kiến trúc ban đầu là một cố gắng to lớn trong công cuộc bảo vệ và phát huy những giá trị di sản văn hóa vật thể - phi vật thể của nước ta. Đình Bình Hòa tồn tại trầm mặc với thời gian, mang trong mình một nét gì đó thật đơn sơ, thân thiện, giản dị mà cũng thật uy nghiêm, nó lưu dấu những ký ức hoài niệm về vùng đất Sài gòn – Gia định gần như trong suốt chiều dài lịch sử. Ngôi đình cùng với hơn 30 cổ vật đều có những giá trị đặc biệt về văn hóa và lịch sử, qua đó phản ánh một phần về đời sống cũng như quan niệm về thế giới tâm linh của người Việt tại khu vực Sài Gòn nói riêng, cũng như cả vùng Nam Bộ nói chung .  

Tài Liệu Tham Khảo 

Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh Một Số Tín Ngưỡng Dân Gian, Ban Quản Lý Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Và Danh Lam Thắng Cảnh năm 2001

Bảo Tàng Cách Mạng Thành Phố Hồ Chí Minh, Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh, NXB Trẻ Năm 1998

Huỳnh Ngọc Trảng, Trương Ngọc Tường, Đình Nam Bộ Xưa Và Nay, NXB Đồng Nai

Nguyễn Hữu Hiến, Tìm Hiểu Văn Hóa Tâm Linh Nam Bộ, NXB Trẻ Năm 2004





[1]  Phùng Hoàng Anh , Đình Bình Hòa , “Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian” Trang 45
[2] Phùng Hoàng Anh , Đình Bình Hòa , “Di Tích Lịch Sử Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh Một Số Cơ Sở Tín Ngưỡng Dân Gian” Trang 47
[3] Di Tích Lịch Sử Văn Hóa TP.HCM, NXB Trẻ TPHCM trang 198

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét